Cảm nhận về bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
Bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Tác phẩm này để lại một ấn tượng mạnh mẽ với người đọc thông qua sự diễn tả tình cảm và hình ảnh tươi sáng.
Sự diễn tả tình cảm
Trong bài thơ, tác giả thể hiện một tình cảm lẻ loi, u sầu và lưu luyến. Từng câu thơ được xây dựng với những từ ngữ tinh tế, nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa. Tình cảm của tác giả tràn ngập trong những chi tiết mô tả về quê hương, về thiên nhiên, và về những kỷ niệm qua lại.
Hình ảnh tươi sáng
Bài thơ “Vội vàng” được tạo nên từ những hình ảnh tươi sáng, đầy màu sắc. Tác giả sử dụng các từ ngữ và mô tả để khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, của những hoạt động hàng ngày và của những cảm xúc tình yêu. Những hình ảnh như hoa đua nở, ánh mắt tỏa sáng, những đường phố rực rỡ, đều góp phần tạo nên một không gian tươi mới và sống động trong bài thơ.
Tầm quan trọng của bài thơ
“Vội vàng” là một trong những tác phẩm mang tính biểu tượng của văn học Việt Nam. Bài thơ này không chỉ đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một bức tranh sống động về tình yêu, sự khát khao và sự chờ đợi. Nó gợi lên những cảm xúc sâu sắc và tạo cho người đọc một trạng thái tâm trạng đặc biệt.
I. Hướng dẫn làm bài Cảm nhận bài thơ Vội vàng – Xuân Diệu
1. Phân tích đề
Trong bài cảm nhận này, chúng ta được yêu cầu trình bày cảm nhận của mình về bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu, đồng thời phân tích ý nghĩa và tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải qua tác phẩm.
2. Luận điểm bài thơ Vội vàng
Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu thể hiện sự tình cảm thiện nghệ với quê hương, đất nước và cuộc đời. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh sắc nét, lời văn tinh tế để thể hiện một trạng thái tâm lý xúc động của con người.
II. Lập dàn ý cảm nhận bài thơ Vội vàng
1. Mở bài cảm nhận Vội vàng
Bài thơ Vội vàng là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Xuân Diệu, là một bức tranh thi văn tuyệt đẹp về đất nước và tình yêu cuộc sống.
2. Thân bài cảm nhận bài thơ Vội vàng
Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh rất sắc nét và tinh tế để thể hiện tình cảm thiện nghệ của mình với quê hương và đất nước. Ngoài ra, bài thơ cũng đề cập đến quan niệm về cuộc đời, về thời gian, về tình yêu.
3. Kết bài cảm nhận bài Vội vàng
Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là một tác phẩm đặc sắc với những ý nghĩa sâu sắc về đất nước và cuộc đời con người. Đây là một trong những tác phẩm nên đọc và cảm nhận để có thể hiểu rõ hơn về văn học Việt Nam.
4. Sơ đồ tư duy cảm nhận bài Vội vàng
- Tình cảm thiện nghệ của tác giả với đất nước và quê hương:
- Tác giả tạo ra một tình cảm chân thành và sâu sắc đối với đất nước và quê hương thông qua việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ.
- Tác giả có thể sử dụng các từ ngữ yêu thương như “quê hương yêu dấu,” “đất nước hồn nhiên,” “nỗi nhớ đong đầy.”
- Qua các chi tiết mô tả về vẻ đẹp và giai điệu của quê hương, tác giả truyền đạt sự kỳ vọng, yêu mến và tự hào đối với nơi mình sinh ra.
- Tác giả có thể sử dụng các phép tu từ như phép ẩn dụ, so sánh, hoặc phép điệp để tạo ra sự thể hiện tình cảm sâu sắc hơn.
- Các yếu tố khác trong bài “Vội vàng”:
- Ngoài tình cảm thiện nghệ với đất nước và quê hương, tác giả có thể đề cập đến các yếu tố khác như tình yêu, thiên nhiên, gia đình, hoặc cuộc sống hàng ngày.
- Các yếu tố này có thể được tương tác và gắn kết với nhau để tạo nên một tầng ý nghĩa sâu sắc và phong phú trong bài viết.
- Lưu ý: Sơ đồ tư duy này chỉ là một mô phỏng tổng quan và có thể có thêm hoặc thay đổi tùy thuộc vào phân tích và hiểu biết cá nhân về bài viết “Vội vàng”.
Nhà thơ Xuân Diệu và tiêu chí đón nhận vẻ đẹp trần thế
Xuân Diệu đã cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời. Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:
- “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”: vị ngọt
- “Này đây hoa của đồng nội xanh rì”: hương thơm, màu sắc
- “Này đây lá của cành tơ phơ phất”: dáng hình uyển chuyển
- “Của yến anh này đây khúc tình si”: âm thanh
- “Này đây ánh sáng chớp hang mi”: ánh sáng của bình minh xuân.
Tất cả những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà. Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quang chúng ta đẹp vô cùng. Vẻ đẹp không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần thế, xung quanh mình.
Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu:
Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, sự vật có đôi, có cặp. Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân tình thế thành tình nhân trong khu vườn tình yêu.
Xuân Diệu và quan điểm về vẻ đẹp mùa xuân
Khái quát lại
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
- Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, căng mọng đẹp tươi nhất
- “Cặp môi gần”: căng mọng, tươi đẹp nhất của tuổi trẻ.
- “Ngon”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Tháng giêng chỉ năm tháng, trừu tượng => môi gần: hữu hình, cụ thể
Có thể cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân rõ nét, cụ thể hơn
Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ
- Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.
Nỗi ám ảnh về thời gian của Xuân Diệu
- Xuân Diệu luôn mang nỗi ám ảnh bởi thời gian, lo sợ thời gian chảy trôi mình sẽ không đón nhận được, tận hưởng từng giây từng phút vẻ đẹp của cuộc sống.
- Suy tư của Xuân Diệu: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm ngách đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu, chuyển từ cảm giác sung sướng sang hoài niệm. Tiếc xuân ngay cả trong lúc xuân đang đẹp nhất, mới có ý thức đón nhận, cảm nhận, căng mở tất cả các giác quan để đón nhận tất cả vẻ đẹp của cuộc đời.
Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu
2 câu thơ đầu:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
- Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại
- Nghệ thuật:
- Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ 3/4, diễn tả bước đi của thời gian
- Điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa
- Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già. => Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại
7 câu thơ tiếp theo
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
- Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.
- Nghệ thuật: Dựng lên những cặp đối lập:
- Rộng – chật
- Xuân tuần hoàn – tuổi trẻ
- Còn trời đất – chẳng còn tôi mãi => Sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn.
- “Lượng trời chật”: Chật khi lấy đi tuổi trẻ, tuổi xuân của mỗi người
- “Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian/ tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. => Tuổi trẻ là thời đẹp đẽ của mỗi người.
Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối
7 câu thơ cuối:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”
- Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.
- Những câu thơ sau là sự giải thích:
- Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt:
- Con gió xinh thì thào trong lá biếc
- Chim rộn rang bỗng đứt tiếng reo thi.
- Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình. Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
- Cảm xúc nuối tiếc, nền tảng khơi dậy những khao khát cháy bỏng ở đoạn sau.
Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
- Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.
- Nghệ thuật:
- Thay đổi cách xưng hô: “tôi” sang “ta”
- Dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.
- Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời.
- Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê
- Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.
Cảm nhận bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
1. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ
Bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu có giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đáng kể. Trong bài thơ, tác giả thể hiện được:
- Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn” => mong muốn được hưởng thụ.
- Quan niệm sống của tác giả: Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến.
2. Kết bài cảm nhận bài “Vội vàng”
Bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu rất đáng để đọc và cảm nhận. Nó thể hiện sự nồng nàn, đam mê của tác giả với tình yêu, cuộc sống và thời gian. Điều này khiến người đọc cảm thấy cảm xúc và nhận ra giá trị của thời gian.
Về cấu tứ bài thơ
Bài thơ của Xuân Diệu là một phép biện chứng tâm hồn. Nhà thơ yêu cuộc sống, đặc biệt là tuổi trẻ, nhưng cũng rất sợ mất nó. Nhìn lại quá khứ, ông không tránh khỏi tiếc nuối và buồn bã, và vì vậy, ông chạy đua với thời gian để vội vàng hưởng thụ mọi vẻ đẹp mà cuộc đời đã ban tặng. Điều này được thể hiện qua thái độ sống “vội vàng”.
Cái tôi trữ tình và cảm xúc phức tạp
Bài thơ của Xuân Diệu thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp. Nhà thơ yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi lại bừng dậy với tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.
Mối quan hệ giữa thời gian và đẹp
Bài thơ chủ yếu nói về mối quan hệ giữa thời gian và cái đẹp của cuộc sống và đời người, đặc biệt là tuổi trẻ. Thời gian dẫn đến một lối sống và thái độ sống. Ý thức về sự chảy trôi của thời gian khiến tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.
Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này, nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân – cái đẹp.
Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu
Giới thiệu
Trong thơ của Xuân Diệu, mùa xuân luôn là chủ đề được yêu thích và được miêu tả rất đặc sắc.
Các đặc điểm của miêu tả mùa xuân trong thơ Xuân Diệu
Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu sắc và hương vị của mùa xuân. Ông muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả.
Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan.
Thí dụ
Cùng đọc đoạn thơ sau của Xuân Diệu để cảm nhận thêm về vẻ đẹp của mùa xuân:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Tác giả tiếc cho cái đẹp – cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,…
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân – tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:
Mùi tháng năm điều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
Cuộc sống trong tầm mắt nhà thơ Xuân Diệu
Luôn tràn đầy niềm vui, khi “Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa”. Giọng thơ thật mượt mà, xuân sắc, bộc lộ cái hứng thú, nỗi niềm hân hoan trước một màu xuân trong trẻo, rộn ràng. Đang thả hồn phơi phới, bay bổng cùng khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, bỗng tác giả như giật mình, giọng thơ trở nên nhanh và vội vã, như e sợ vụt mất điều gì đó quan trọng lắm.
“Xuân đang đến nghĩa là xuân sẽ qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
À thì ra, tác giả ngộ ra rằng, vạn vật đều có hữu hạn, xuân đến rồi xuân cũng đi, có “non” thì cũng phải có “già”, đời người cũng thế, chẳng thoát nổi bàn tay của tạo hóa “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Xuân Diệu có ý thức rất sâu sắc về thời gian của tuổi trẻ, từng vần thơ đều lộ nỗi lo lắng, bất an của nhà thơ, ông lo mùa xuân sẽ hết mất, tuổi trẻ cũng mau qua.
Trong khi đó ông vẫn chưa kịp tận hưởng trọn vẹn cuộc sống, trọn vẹn mùa xuân.
“Lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Tác giả bắt đầu có chút oán than, trách ông trời, lòng yêu cuộc sống, niềm khao khát yêu thương của tuổi trẻ đang còn mãnh liệt, nồng nàn ấy thế mà ông trời lại keo kiệt, chẳng “cho dài tuổi trẻ của nhân gian”.
“Dài” là bao lâu?
Cái sự tiếc nuối tuổi trẻ
Thiết nghĩ rằng, với cái lòng “tham” tận hưởng và nỗi luyến tiếc sâu sắc của Xuân Diệu, thì cái “dài” ở đây dễ là vô hạn lắm. Để thấy được rằng, cái sự tiếc nuối tuổi trẻ, mùa xuân đã hiện hữu trong tâm hồn tác giả từ rất sớm, từ khi xuân chưa qua, đời còn trẻ, thật sâu sắc.
Triết lý về thời gian
Người đọc cũng dần nhận ra cái triết lý sâu sắc về thời gian mà Xuân Diệu đã gửi gắm vào từng câu thơ trong Vội vàng. Nếu ai có bảo “xuân vẫn tuần hoàn”, thì Xuân Diệu sẽ đáp lại ngay “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Đúng vậy, xuân đi rồi xuân lại về, nhưng liệu cuộc đời có ai mà hai lần tuổi trẻ không?
Niềm tiếc nuối của nhà thơ
Nên điều mà Xuân Diệu băn khoăn và mãi tiếc nuối chính là thanh xuân của một đời người vốn hữu hạn, chẳng đủ cho ông yêu, ông tận hưởng hết niềm vui thú nhân gian, chẳng đủ để ông sống và yêu trong say đắm ngọt ngào. Chết là về với cát bụi “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi”, Xuân Diệu sống trong “bâng khuâng, tôi tiếc cả đất trời”, cái niềm tiếc nuối của nhà thơ là vô tận, ông tiếc hết tất thảy, cả trời đất cũng đưa vào cái tâm hồn tiếc nuối rộng lớn của ông.
Triết lý thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ
Trong bài thơ, Xuân Diệu sử dụng cơn gió với “nỗi hờn phải bay đi”, tiếng chim “sợ độ phai tàn sắp sửa” để mô tả triết lý thời gian sâu sắc hiện hữu trong từng vần thơ. Ông chứng minh rằng không chỉ riêng mình ông, mà cả đất trời đều sợ thời gian trôi qua mau, xuân chóng tàn.
Trong đoạn thơ “Chẳng bao giờ! Ôi! Chẳng bao giờ nữa…/Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”, Xuân Diệu vực dậy trong nỗi niềm tiếc nuối và khát khao sống trọn vẹn. Ông nhận ra rằng không thể mãi sống như vậy được và muốn tận hưởng cuộc sống vốn đang còn tươi đẹp, trước khi ta già cỗi, mắt mờ, tai yếu.
Cảm xúc mãnh liệt của tác giả
Giọng thơ của tác giả mang lại cảm giác vồ vập, gấp gáp, sợ rằng tuổi trẻ, mùa xuân sẽ vụt mất. Cảm tưởng như Xuân Diệu muốn ôm hết tất cả vào lòng mà tận hưởng cho thỏa. Ông say “chếnh choáng” trong mùi thơm hoa cỏ, đong đầy tâm hồn bằng “ánh sáng” của mặt trời mùa xuân, hưởng thụ “cho no nê thanh sắc của thời tươi”.
Mong muốn tình yêu và hạnh phúc
Trong đoạn thơ “Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn/Ta muốn riết mây đưa và gió lượn/Ta muốn say cánh bướm với tình yêu/Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”, Xuân Diệu thể hiện mong muốn tình yêu và hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống của mình.
Vẻ đẹp của mùa xuân
Ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà!
Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:
Tà áo mới cũng say múi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui. (Xuân đầu)
Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui. Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa. Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ: này đây dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người.
Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp
Mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa. Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! Cụm từ “Ta muốn ôm” đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống… mơn mởn… Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ “Ta muốn” diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy.
Những động từ mạnh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Tác giả của bài thơ Vội vàng như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:
- Ôm toàn tâm toàn trí, riết toàn hồn
- Thâu toàn thân và cắn đủ đầy mọi giác quan
Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống, nhất là mùa xuân – tuổi trẻ. Từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ – một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời, nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.
Tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống
Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó quá rồi lại nuối tiếc.
Bước đi quyết liệt của thời gian
Tác giả đã cảm thức được sự trôi chảy của thời gian và cách để tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống. Bài thơ của tác giả mang thông điệp rằng chúng ta cần tranh thủ thời gian để sống hết mình, không để lãng phí.
Xuân đến xuân đi
Nhà thơ Xuân Diệu đã cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian và cái đẹp của cuộc sống. Trong bài thơ của ông, tác giả đã thể hiện rằng xuân đến cũng là lúc xuân đi, và thời gian trôi đi quá nhanh. Ông cũng nhấn mạnh rằng cái đẹp sẽ phai nhạt và tuổi trẻ sẽ qua đi.
Điệp ngữ của bài thơ
Bài thơ nhắn nhủ chúng ta về sự quan trọng của việc tận hưởng cuộc sống và tranh thủ thời gian. Thời gian trôi đi quá nhanh, và chúng ta không nên để lãng phí những khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống.
Nhà thơ Xuân Diệu và triết lý nhân sinh
Qua đó, nhà thơ gửi gắm đến người đọc, người nghe những triết lý nhân sinh sâu sắc bằng một giọng thơ đầy phóng khoáng, tự do.
Khi nhận định về phong trào thơ mới, nhà phê bình Hoài Thanh đã có một nhận xét rất ưu ái khi cho rằng: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của Xuân Diệu có một sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ, vừa mang một phong cách rất Tây rất nồng nàn, gợi mở nhưng sâu kín lại là tâm hồn dân tộc sâu sắc.
Trong bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu đã sử dụng phép điệp cấu trúc ngay trong bốn dòng thơ đầu, kết hợp với điệp ngữ “Tôi muốn” và điệp từ “cho” đã nhấn mạnh khao khát của nhà thơ, cái khao khát giao hòa với thiên nhiên, bám riết lấy cuộc đời, để tận hưởng, lưu giữ lấy cái hương sắc cuộc đời tuyệt mỹ nhất thế gian, của màu nắng của hương gió, như Hàn Mặc Tử muốn đợi trăng, trăng về.
Khao khát ấy có vẻ ngông cuồng, nhưng lại chính là đặc trưng của nền văn học lãng mạn, phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả những khát vọng, ước mơ.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n_Di%E1%BB%87u