Tác phẩm “Quê hương” của Tế Hanh là một bài thơ về tình cảm đối với quê hương, nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên. Bài thơ được viết bằng lối thơ tự do, tả lại những cảm xúc sâu sắc, tình cảm chân thành của tác giả đối với quê hương. Tác phẩm đã trở thành một trong những bài thơ hay nhất của Tế Hanh, được đông đảo độc giả yêu thích và trân quý.
Tác giả Tế Hanh
Tế Hanh, tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh năm 1921 tại xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; hiện đang cư trú tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ông là một nhà thơ, đã tham gia cách mạng từ tháng 8-1945 và trải qua nhiều công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng. Năm 1948, ông tham gia Ban phụ trách Liên đoàn kháng chiến Nam Trung Bộ; là Uỷ viên Thường vụ cho Hội Văn nghệ Trung ương. Từ khi Hội Nhà văn Việt Nam được thành lập vào năm 1957, ông đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như Uỷ viên Thường vụ Hội khóa I, II, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Nội dung tác phẩm “Quê hương”
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh miêu tả về nơi quê hương của ông, nơi có những đồi núi, ruộng đồng và những ngôi nhà xưa cũ. Tác giả nhìn lại quá khứ của mình, những kỷ niệm đẹp khi còn ở quê hương, những người bạn thân thiết, những con đường, những trò chơi dân gian, những câu chuyện cổ tích…
Tác giả cảm thấy rất yêuquê hương mình, và trong bài thơ, ông thể hiện sự tiếc nuối với những thay đổi của quê hương khiến nó không còn giống như trước đây. Tuy nhiên, Tế Hanh vẫn giữ vững tình yêu và niềm tự hào với quê hương của mình.
Thông tin về tác giả Tế Hanh và các tác phẩm đã xuất bản
Ông Tế Hanh đã cho xuất bản nhiều tập thơ và tiểu luận, bao gồm:
- Hoa niên (1945)
- Hoa mùa thi (1948)
- Nhân dân một lòng (1953)
- Bài thơ tháng bảy (1961)
- Hai nửa yêu thương (1963)
- Khúc ca mới (1966)
- Đi suốt bài ca (1970)
- Câu chuyện quê hương (1973)
- Theo nhịp tháng ngày (1974)
- Giữa những ngày xuân (1977)
- Con đường và dòng sông (1980)
- Bài ca sự sống (1985)
- Tế Hanh tuyển tập (1987)
- Thơ Tế Hanh (1989)
- Vườn xưa (1992)
- Giữa anh và em (1992)
- Em chờ anh (1994)
Ông cũng đã xuất bản nhiều tập thơ dịch của các nhà thơ lớn trên thế giới.
Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học, bao gồm:
- Giải Tự lực văn đoàn năm 1939
- Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (năm 1996)
Phân tích tác phẩm “Quê hương”
Tóm tắt nội dung bài thơ
Trong bài thơ “Quê hương”, Tế Hanh miêu tả về quê hương của mình, với những cảnh đẹp, những kỷ niệm và cảm xúc của tác giả đối với quê hương.
Nghệ thuật trong bài thơ
Tác phẩm “Quê hương” được xem là một trong những tác phẩm thơ hay và sâu sắc nhất của Tế Hanh. Trong bài thơ này, ông sử dụng những hình ảnh tươi đẹp và sâu sắc để miêu tả về quê hương của mình.
Tình cảm của tác giả đối với quê hương
Tác phẩm “Quê hương” là một tác phẩm rất cảm động, khiến người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc của Tế Hanh đối với quê hương của mình. Tác giả miêu tả về quê hương như một thứ vật chất, nhưng đồng thời cũng là một thứ tinh thần, một phần cuộc sống của mình.
Trên đây là những thông tin cơ bản về tác phẩm “Quê hương” của Tế Hanh. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về tác phẩm này, hãy ghé thăm đường link tham khảo ở trên để có thêm thông tin chi tiết.
Hình ảnh nổi bật trong bài thơ của Tế Hanh
Trong bài thơ của ông Tế Hanh, hình ảnh làng chài với những sinh hoạt vô cùng thân thuộc được miêu tả nổi bật. Những người dân chài mạnh khoẻ, cường tráng cùng với những con thuyền, những cánh buồm được coi là biểu tượng của làng chài cũng được đề cập. Vì được tái hiện lên từ nỗi nhớ êm đềm, làng chài gắn liền với hoạt đ
Đoàn thuyền ra khơi trong một ngày thật đẹp
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Thời tiết đẹp không chỉ thiết thực với người dân chài (thời tiết có đẹp thì mới ra khơi được) mà còn làm nổi bật vẻ đẹp của làng chài trong tình yêu và nỗi nhớ của nhà thơ.
Sức lực tràn trề của những người trai làng như truyền vào con thuyền, tạo nên khung cảnh ấn tượng, rất mạnh mẽ và hoành tráng:
- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
- Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
- Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Những con thuyền rẽ sóng băng băng và lời thơ cũng theo đó mà bay bổng trong không gian vô cùng rộng rãi, khoáng đạt. Mọi hình ảnh đều được nâng lên đến mức biểu tượng. Chiếc thuyền thì “hăng như con tấu mã”, một từ “phăng” thật mạnh mẽ, dứt khoát đã đưa con thuyền “mạnh mẽ vượt trường giang”. Đặc sắc nhất là cánh buồm. Trên sóng nước, hình ảnh dễ thấy nhất là cánh buồm chứ không phải con thuyền:
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm …
(Qua đò – Nguyễn Bính)
Rất ít khi trong các bức tranh vẽ thuyền mà lại thiếu cánh buồm bởi nó chính là yếu tố tạo nên sự hài hoà cân đối và vẻ đẹp lãng mạn.
Với một người xa quê, cánh buồm là hình ảnh tượng trưng cho quê hương
Cánh buồm đã trở thành một biểu tượng đặc trưng của quê hương với dáng vẻ mạnh mẽ và khoáng đạt. Với một người xa quê, cánh buồm còn “như mảnh hồn làng”:
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Tế Hanh đã viết được những câu thơ giàu giá trị biểu hiện tình yêu quê hương tha thiết và niềm tự hào mãnh liệt:
Sau cảnh “khắp dân làng tấp nập đón ghe về” (gợi tả không khí sinh hoạt vô cùng thân thuộc của làng chài), những câu thơ đột ngột chùng xuống:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Từ tả thực, những câu thơ lại dần nghiêng về sắc thái biểu tượng lắng câu, góp phần tạo cho bài thơ một cấu trúc hài hoà, cân đối. Bên trên là cảnh rẽ sóng vượt trùng dương, thì đến đây là cảnh nghỉ ngơi. Cái tĩnh đi liền ngay sau cái động nhưng không tách biệt hoàn toàn.
Câu thơ của Tế Hanh và hình ảnh đại dương trong bài thơ
Có một sợi dây liên kết, một sự gắn bó rất mật thiết phía sau hình ảnh “làn da ngăm rám nắng” và “thân hình nồng thở vị xa xăm” của những người trai làng chài, bên cạnh đó còn phải kể đến chi tiết rất gợi cảm: chiếc thuyền đã trở về nghỉ ngơi trên bến nhưng vẫn “nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Từ “chất muối” cho đến hơi thở “vị xa xăm” đều gợi đến biển cả, đến những chuyển động vượt qua muôn ngàn sóng gió. Đó chính là khát vọng chinh phục đại dương rất mãnh liệt, đã ngấm sâu trong huyết quản của những người dân làng chài, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Cánh buồm – Biểu tượng cho quê hương và ước mơ
Ai sinh ra ở vùng duyên hải hẳn chẳng lạ gì những cánh buồm. Thế nhưng những câu thơ của Tế Hanh vẫn có một cái gì đó là lạ và cuốn hút:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Cánh buồm vô tri đã được người thi sĩ thổi vào một tâm hồn. Đó chính là cái hồn thiêng liêng (trong tâm khảm nhà thơ) của ngôi làng ấy. Nhà thơ đã lấy cái đặc trưng nhất (những cánh buồm) để mà gợi ra bao ước mơ khao khát về một cuốc sống no ấm, đủ đầy. Câu thơ sau thấm chí còn “có hồn” hơn. Thuyền không phải tự ra khơi mà đang “rướn” mình ra biển cả. Hình ảnh thơ đẹp và thi vị biết bao.
Đắm say hương vị biển khơi
Hình ảnh dân chài và cuộc sống trên biển
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.”
Hai câu thơ này tạo ra một bức tranh về những con người dân chài, những người có cuộc sống gắn bó với biển khơi. Làn da “ngăm rám” và “hơi thở” mang hương vị nồng mặn của biển.
Tình cảm chân thành của nhà thơ với quê hương
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ.
Trong nỗi nhớ lại thấp thoáng màu nước xanh, cát bạc, cánh buồm…
và hẳn không thể thiếu con thuyền ‘rẽ sóng chạy ra khơi’.”
Nhà thơ đã giãi bày trực tiếp tình cảm của mình với quê hương và những hình ảnh sâu đậm của nó. Con thuyền “rẽ sóng chạy ra khơi” là biểu tượng cho sự tự do, khát khao khám phá của con người.
Cảm xúc da diết của tác giả
“Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Câu thơ đơn giản nhưng đầy cảm xúc này thể hiện nỗi nhớ da diết của tác giả đối với quê hương và hương vị nồng mặn của biển khơi.
Nét đắc sắc nghệ thuật trong bài thơ
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh được coi là một tác phẩm nổi bật về mặt nghệ thuật trong văn học Việt Nam.
Sự sáng tạo các hình ảnh thơ là một trong những điểm nổi bật của bài thơ này. Tác giả đã sử dụng sự quan sát tinh tế và cảm nhận sắc sảo để thể hiện những hình ảnh phong phú, chân thực và lãng mạn. Những hình ảnh này khiến bài thơ tràn đầy thi vị và có hồn.
Sự kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm
Bài thơ sử dụng kết hợp phương thức miêu tả và biểu cảm, trong đó yếu tố miêu tả phụ vụ cho biểu cảm trữ tình. Sự kết hợp này giúp hình ảnh thơ lột tả chân thực, tinh tế cảnh vật và con người của cuộc sống miền biển, đồng thời thể hiện sâu sắc những rung động của tâm hồn nhà thơ.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BF_Hanh