Cảm nhận 9 câu đầu trong bài thơ Đất Nước
Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những tác phẩm văn học quan trọng của Việt Nam. Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát, gồm 9 câu đầu với tổng số 72 câu thơ. Nội dung bài thơ phản ánh tình yêu quê hương, quê nhà của tác giả.
Cảm nhận của người đọc
Điểm nổi bật của 9 câu đầu trong bài thơ Đất Nước là sự miêu tả tuyệt vời về phong cảnh và con người Việt Nam. Bằng cách sử dụng các từ ngữ sống động, tác giả đã tạo ra một hình ảnh tuyệt vời về đất nước và con người Việt Nam.
Phong cảnh đẹp và tuyệt vời
Trong 9 câu đầu của bài thơ Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã miêu tả một cách tinh tế về phong cảnh Việt Nam. Các câu thơ như “Cù lao xanh trôi dạt mây trời, Những chiếc thuyền nghiêng nghiêng chở bao lau” hay “Đồi trùng trùng, núi ngút ngàn xanh tươi” đã tạo ra một hình ảnh tuyệt vời về vẻ đẹp tự nhiên của Việt Nam.
Tình yêu thương đối với quê hương
Ngoài việc miêu tả phong cảnh Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự tình cảm đối với quê hương và những người dân Việt Nam. Tác giả đã sử dụng các câu thơ như “Quê hương là đây, là đồi núi, là biển rộng, là sông dài” để tuyên bố sự quan tâm và yêu thương của mình đối với quê hương.
Dàn ý cảm nhận 9 câu đầu
I. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, trường ca Mặt đường khát vọng và chương Đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với phong cách thơ mang đậm chất trữ tình chính luận.
- “Đất Nước” được trích từ chương V, trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác trong thời kỳ chiến trường Miền Nam vô cùng ác liệt.
- “Đất Nước” ra đời với mục đích khơi gợi tình yêu nước thẳm sâu, kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình vào cuộc chiến của dân tộc.
II. Thân bài
Đất nước có tự bao giờ? Câu trả lời có ngay trong câu thơ đầu tiên
Cảm nhận về đất nước của tác giả theo chiều sâu văn hóa lịch sử và từ những cuộc sống quen thuộc của mỗi người.
Cụm từ “ngày xưa ngày xửa” gợi ý về những bài học thấm đượm nghĩa tình được gửi gắm thông qua những câu chuyện cổ tích.
Mỗi câu thơ chính là quá trình hình thành đất nước gắn liền với văn hóa, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về 9 câu thơ đầu và đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là những gì thân thuộc và bình dị của chính con người Việt Nam.
Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” gợi những bài học về đạo lí làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.
Luận điểm 1: Quá trình hình thành đất nước?
Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.
Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.
Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ cồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý:”Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
Đất nước là tinh thần của nhân dân
“Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những bài thơ trữ tình chính luận hay nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Bài thơ là cảm xúc ngọt ngào, suy tư sâu lắng của tác giả về đất nước qua những góc nhìn mới mẻ và hiện đại.
Đất nước và văn hóa Việt Nam
Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người Việt Nam, gắn liền với đời sóng gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành linh ồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.
Đất nước là sự chiến đấu
Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi chùng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi niềm, đã thể hiện được tinh thần chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa, văn học dân gian: “Đất Nước của nhân dân”. Vì vậy, đoạn thơ không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu.
Góp phần làm nên tập thơ “Mặt đường khát vọng”
Trích trong tập thơ đó, “Đất Nước” đã góp sắc tỏa hương, để nổi bật lên thành một trong những bài thơ đặc sắc nhất.
Đoạn bài thơ “Đất Nước”
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Phần đầu, chương V của khúc trường ca
Bài thơ “Đất Nước” thuộc phần đầu, chương V của khúc trường ca. Bài thơ mở đầu với những khúc suy tư về cội nguồn sâu xa của đất nước.
Khẳng định về sự hiện diện của Đất Nước
Tác giả khẳng định Đất Nước đã có từ ngàn đời xa xưa, con người ta sinh ra Đất Nước đã ở bên để đỡ đần chăm sóc.
Câu thơ gợi liên tưởng tới màu huyền thoại của cổ tích
Tục ăn trầu với câu chuyện sự tích trầu cau nhắc ta nhớ về truyền thống thủy chung son sắt. Truyền thống trồng tre với câu chuyện của cậu bé làng Gióng nhắc ta về ý chí chiến đấu chống giặc ngoại xâm luôn song hành với sự “lớn lên” của Đất Nước: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”.
Đất Nước – từ cụm từ thiêng liêng đến câu chuyện cổ tích bé thơ
“Đất Nước” được viết hoa như một cách tác giả bày tỏ tình yêu và sự trân trọng dành cho cụm từ đầy thiêng liêng đó. Nhưng kì lạ thay, Đất Nước lớn lao đã có từ ngàn đời bỗng hóa thành bình dị khi ẩn mình vào những câu chuyện cổ tích bé thơ. Đất Nước gắn bó và nhắc nhở ta về truyền thống thủy chung, nghĩa tình nồng đượm, nhắc ta về lịch sử hào hùng để lớn lên từng ngày theo chiều dài lịch sử vẻ vang.
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Tình yêu thủy chung trong văn hóa người Việt
Không những thế, tác giả còn lí giải cội nguồn đất nước qua những phong tục tập quá giản dị của người Việt.
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Gợi suy ngẫm về tục bới tóc vốn đã có từ xa xưa của người Việt cổ. Hình ảnh mẹ luôn song hành với cha:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Ta bỗng chống nhớ về những câu thơ xa xưa:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Dù ba vạn sáu ngàn ngày vẫn chẳng xa”
Cha mẹ thương nhau vì tình yêu thủy chung, sắt son chẳng thể tách rời. Đất Nước hiển hiện trong cả truyền thống thủy chung của người Việt nên càng thêm sâu sắc và xúc động. Dù có đắng cay và gian khổ, dù có phải trải qua muôn vàn đèo cao thử thách thì tình cảm sắt son mà con người dành cho nhau cũng không thể dễ dàng biến chuyển, cũng có lẽ bởi thế mà Đất Nước được bồi tụ trong chiều sâu văn hóa ngọt ngào.
Tục đặt tên và truyền thống xây dựng nhà cửa
Từ cha mẹ thương nhau, tác giả lại nhắc đến tục đặt tên của người Việt cổ. Cái kèo, cái cột gợi về cách làm nhà truyền thống, dựng cột, gác kèo vững chãi để chống thú dữ.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm “Đất nước”
Đất nước là gì?
Nếu với nhiều nhà thơ đất nước là gắn liền với những huyền thoại và anh hùng lịch sử thì với Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước là những gì rất gần gũi thân quen trong chính cuộc sống thường nhật. Tác phẩm Đất nước được rút từ trường ca “Mặt đường khát vọng” và chỉ với 9 câu thơ đầu Nguyễn Khoa Điềm đã giúp cho bao thế hệ trả lời được câu hỏi “Đất nước có từ bao giờ”.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước đã được hình thành từ rất lâu, rất lâu mà khi chúng ta sinh ra cất tiếng khóc chào đời đã có rồi. Như vậy chủ quyền của dân tộc Việt Nam là từ hàng nghìn năm nay khi khai sinh lập địa đã tồn tại và chúng ta những hậu duệ sau này cần phải chiến đấu để giữ gìn dân tộc mà ông cha ta xây dựng nên. Câu thơ muốn nhắn nhủ với bao thế hệ người Việt về truyền thống yêu nước quý báu chống giặc ngoại xâm giữ vững chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
Quê hương Việt Nam trong truyện cổ tích
Quê hương Việt Nam gắn liền với những câu chuyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa” trong lời bà kể và những lời ru tha thiết của mẹ.
Mẹ Đất nước và Văn hóa Việt Nam
Mẹ Đất nước Việt Nam được miêu tả là cổ kính và bình dị trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Văn hóa của Đất nước được coi là kết tinh từ tâm hồn Việt, từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã trở thành hình ảnh nghệ thuật mang tính thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thương và lòng thủy chung của dân tộc.
Phong tục và tập quán của Đất nước
Đất nước Việt Nam có nhiều phong tục và tập quán đặc trưng, bao gồm:
- Tóc mẹ thì bới sau đầu
- Cái kèo, cái cột thành tên
Đây là những phong tục đơn giản nhưng thân thương, là biểu hiện của sự quan tâm và tình yêu thương của dân tộc Việt Nam. Những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất cũng là một phần của Đất nước.
Cây trẻ – Biểu tượng của sức mạnh tinh thần
Cây trẻ trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Những lũy tre xanh rì, những búp măng non bật mình vươn thẳng là hình ảnh thân thuộc với Đất nước Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm của Nguyễn Khoa Điềm
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm của Nguyễn Khoa Điềm làm cho suy từ về cội nguồn Đất nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình.
Cảm nhận về cội nguồn Đất nước
Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng:
- Đất nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người.
- Đất nước ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước còn ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừng; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Văn hóa dân gian và câu thơ trầm tích
Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh. Đất nước mình giản dị thân thương là thế.
Hình ảnh về sản xuất lúa nước
Hình ảnh Đất nước còn có trong từng bông lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng.
Đất nước Việt Nam trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
Hình ảnh thơ về những người chân lấm, tay bùn
Hình ảnh thơ gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, chịu khó của những người chân lấm, tay bùn.
Thời điểm hình thành Đất nước Việt Nam
9 câu thơ đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm hình thành Đất nước: Đất nước có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.
Tính giản dị và gần gũi của lịch sử Đất nước
Lịch sử Đất nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ đầy bình dị, thân quen với đời sống. Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định “Đất nước có từ ngày đó …” và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ.
Tên gọi gắn bó với cuộc sống
Cũng vì vậy mà bắt đầu xuất hiện tục đặt tên gần với những dụng cụ hằng ngày, khiến con người càng ngày càng gắn bó chặt với cuộc sống xung quanh, khiến họ có trách nhiệm giữ gìn, vun đắp vào ánh lửa của tổ ấm gia đình. Đặt tên là Kèo, là Cột tuy bình dị mà lại ẩn chứa nhiều suy nghĩ sâu xa. Phải chăng khi viết về Đất Nước, tác giả đã dồn nén cảm xúc ngọt ngào và suy tư sâu lắng để làm nên những câu thơ hay?
Vẻ đẹp của sự cần cù và siêng năng
Không những có những truyền thống đó, người Việt còn hiện ra với vẻ đẹp của sự cần cù, siêng năng trong quá trình làm ra hạt gạo:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Thành ngữ “Một nắng hai sương” một lần nữa đưa ta về với miền đất trù phú của văn học dân gian, cũng đặc tả sự khó nhọc, vất vả của người dân khi làm ra hạt ngọc trời. Để làm ra một bát cơm thơm, một hạt gạo trắng, là cả một quá trình đầu lo âu và vất vả. Quá trình “xay, giã, giần, sàng” được liệt kê một cách đầy đủ khiến ta hình dung ra quá trình làm ra hạt gạo là một hành trình đầy gian nan vất vả, cũng nhờ điều đó làm nền mà đức tính cần cù, chăm chỉ của người nông dân đã được đặc tả rõ nét.
Tình nghĩa trong những câu chuyện và lời hát ru
Trong mỗi câu chuyện, trong từng lời hát ru ấy là những bài học ý nghĩa và thắm đượm tình nghĩa muốn gửi gắm lại cho thế hệ tương lại. Đó chính là tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, là tình yêu quê hương…và biết bao điều tốt đẹp khác. Đất nước được hình thành từ những điều rất quen thuộc và gần gũi với mỗi người con đất Việt.
Những hình ảnh thường gắn với Việt Nam
- Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà thường ăn
- Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
- Tóc mẹ thì bới sau đầu
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
- Cái kèo, cái cột thành tên
- Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó… Đất nước bắt đầu từ “miếng trầu” bà thường ăn đó chính là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” của dân tộc ta. Hình ảnh “cây tre” tượng trưng cho con người Việt Nam bất khuất kiên cường sẵn sàng đương đầu với mọi kẻ thù. Cây tre còn khiến chúng ta liên tưởng đến nhân vật Thánh Gióng trong truyền thuyết chống giặc Ân xâm lược dưới thời vua Hùng. Qua đó tác giả lại muốn khẳng định Việt Nam đã tồn tại từ rất lâu và trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Khoa_%C4%90i%E1%BB%81m