Bác Hồ sinh vào thế kỷ nào?
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh vào cuối thế kỷ 19, cụ thể là năm 1890.
Lịch sử và ý nghĩa ngày sinh nhật của chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật vĩ đại của lịch sử thế giới, đấu tranh cho sự tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam và quyền con người của người dân thế giới. Ngày sinh nhật của Bác được tổ chức vào ngày 19/5 hàng năm, là ngày kỷ niệm quan trọng để tưởng nhớ đến những cống hiến vĩ đại của ông đối với đất nước và nhân loại.
Bác Hồ lấy tên Hồ Chí Minh vào thời gian nào?
Bác Hồ lấy tên Hồ Chí Minh vào năm 1941, tại một cuộc hội nghị lịch sử ở Trung Quốc. Tên này được đặt để tôn vinh vị đại tướng và người lãnh đạo cách mạng của Trung Quốc là Hồ Chí Minh, người đã dẫn dắt cuộc khởi nghĩa Tân Cương (1930-1931) tại miền nam Trung Quốc.
Ý nghĩa ngày 19/5
Ngày 19/5 không chỉ là ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là Ngày của Nhà giáo Việt Nam, kỷ niệm sự ra đời của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và là Ngày truyền thống của Ngành Thông tin và Truyền thông Việt Nam. Ngày này cũng là dịp để nhân dân Việt Nam tổ chức các hoạt động tưởng nhớ và tri ân đến các nhà giáo, các nhà khoa học, các tác gia và các nghệ sĩ đã có những đóng góp to lớn cho đất nước và nhân loại.
Những hoạt động kỷ niệm ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngoài việc tổ chức các nghi thức tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh như treo cờ, dâng hoa tại lăng Chủ tịch và tu bổ ngôi nhà cũng như đón tiếp khách tham quan tại quê hương, còn có những hoạt động song hành:
- Biểu diễn nghệ thuật
- Thi đua phong trào
- Diễu hành
- Thăm hỏi các cá nhân, tổ chức có công với cách mạng
Những hoạt động này đã giúp truyền tải thông điệp tích cực về tinh thần yêu nước và giáo dục thế hệ con cháu truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc.
Tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ
Trong suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều tên gọi, bí danh hay bút danh khác nhau. Mỗi tên gọi, bí danh hay bút danh của Người đều có một ý nghĩa riêng, phục vụ lợi ích cách mạng.
Dưới đây là những tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ:
- Nguyễn Sinh Cung, 1890
Tên khai sinh của Hồ Chí Minh
1. Đây là tên khai sinh tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Các tên gọi khác của Hồ Chí Minh
Nguyễn Sinh Côn
Trong một bài viết của Hồ Chí Minh, năm 1954, Hồ cũng ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn.
Nguyễn Tất Thành, 1901
Tháng 9, 1901, nhân dịp ông Nguyễn Sinh Sắc, cha Nguyễn Sinh Cung, chuyển về sống ở làng Kim Liên, ông có làm lễ “chào làng” cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Nguyễn Bé Con
Trong tài liệu đề ngày 6 tháng 2, 1920 của Tổng đốc Vinh cung cấp về Nguyễn Sinh Sắc và hai con trai có ghi con trai thứ của Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Bé Con. Tài liệu mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, bản ghi số 1116, 1931: Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Sinh Côn hay Nguyễn Bé Con tức Lý Thụy…
Văn Ba, 1911
Ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành rời Việt Nam làm việc trên một chiếc Tàu Pháp. Trong sổ lương của tàu có tên Văn Ba.
Paul Tat Thanh, 1912
Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy.
Bút danh của Nguyễn Ái Quốc từ 1922-1939
Bút danh trên báo Le Paria và L’Humanité
- Ng.A.Q. (1922)
- Chen Vang (1923)
- Nguyễn (1923, 1924, 1928)
Bút danh khác
- Henri Tran (1922)
- N. (1923-1928 trên Le Paria)
- Chú Nguyễn (1923)
- Lin (1923-1924, 1934-1939)
Thông tin khác
- Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc, số thẻ 13861.
- Chen Vang là tên Nguyễn Ái Quốc mang khi được cấp giấy đi đường số 1829 từ cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Sô Viết Liên Bang tại Berlin.
- Lin được nhận vào trường Quốc Tế Lenin Liên Sô năm 1934 với số hiệu 375.
Note: I have used bold to emphasize important information and have used HTML lists to organize the information into different sections with appropriate headings (H2, H3, H4).
Nguyễn Ái Quốc và các bút danh
Ái Quốc
Ái Quốc là tên được ghi trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 6 năm 1924. Sau đó, trong thư gửi đồng chí Francois Billous vào tháng 8 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã ký tên là Ái Quốc.
Un Annamite
Bút danh Un Annamite được Nguyễn Ái Quốc sử dụng để ký dưới một bài viết trên tạp chí Le Paria vào năm 1924.
Loo Shing Yan
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết một bài về phong trào cách mạng Trung Quốc và gửi tới tạp chí Rabotnhitxa. Trong bài viết này, ông đã sử dụng bút danh Loo Shing Yan và giải thích rằng đó là tên của một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng.
Cách thức sử dụng bút danh
Nguyên nhân của việc sử dụng các bút danh này là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại thời điểm đó bị coi là bất hợp pháp. Vì vậy, ông đã sử dụng các bút danh khác nhau để bảo vệ danh tính của mình khi viết các bài báo hoặc gửi thư cho các tạp chí và báo chí.
Nguyễn Ái Quốc’s Use of Aliases and Pseudonyms
Ông Lu, 1924
On November 12, 1924, Nguyễn Ái Quốc wrote a letter to a comrade in the Communist International, reporting that Ông Lu had arrived in Guangzhou, China. At the end of the letter, he provided Ông Lu’s contact address at the Roxta News Agency in Guangzhou, China. In later correspondence, Nguyễn Ái Quốc also referred to this contact address as belonging to Ông Lu.
Lý Thụy, 1924
Nguyễn Ái Quốc used the pseudonym Lý Thụy during his time in China. On November 11, 1924, he arrived in Guangzhou with personal papers under the name Lý Thụy. In a letter to the Communist International dated December 18, 1924, Nguyễn Ái Quốc wrote, “At present, I am a Chinese person, not an Annamese, and my name is Lý Thụy, not Nguyễn Ái Quốc.”
Lý An Nam, 1924-1925
While working as a translator in the Soviet Advisers’ Office in Guangzhou under the pseudonym Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc also used the alias Lý An Nam.
Nilopxki (N.A.Q.), 1924
In 1924, Nguyễn Ái Quốc also used the alias Nilopxki (N.A.Q.)
Thông tin liên hệ của Nguyễn Ái Quốc
Tên và địa chỉ nhận thư:
Thầu Chín hoặc Ông già Chín, Victor Lebon, 123 av. de la République, Paris, France
Nội dung thư:
Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư cho đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế Cộng Sản để thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập và yêu cầu được cung cấp tài liệu để tuyên truyền và giáo dục. Ông cũng đề nghị Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ.
Tên và địa chỉ nhận sách báo:
Mr. Lee, The HongKong Shiao Fih Pao, 53, Wyndham Str, HongKong
Với tên và địa chỉ này, Nguyễn Ái Quốc gửi cho đại diện Đảng Cộng Sản Mỹ ngày 27 tháng 2 năm 1930.
Đề nghị xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới:
Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho văn phòng đại diện Đảng Cộng Sản Đức ở Quốc Tế Cộng Sản để đề nghị xin cho ông ta một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Trong thư, ông viết: “Trong hoàn cảnh tôi sống không hợp pháp, tôi cần có một nghề để nói với người khác. Tội đóng vai phóng viên báo chí.”
Ghi chú:
Trong các thư này, Nguyễn Ái Quốc sử dụng các tên khác nhau để giấu danh tính và tránh bị bắt giữ bởi các chính quyền thuộc Pháp và các nước đối lập với cách mạng.
Bút danh Nguyễn Ái Quốc và các biệt danh khác của Hồ Chí Minh
Bút danh Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc là bút danh mà Hồ Chí Minh sử dụng khi hoạt động tại các nước phương Tây. Bút danh này được sử dụng trong hai bài thơ “Tặng Thống Chế Pê Tanh” và “Nhóm Lửa” đăng trên tạp chí Việt Nam Độc Lập, số 131, ngày 11 tháng 7 năm 1942 và số 133, ngày 1 tháng 8 năm 1942.
Biệt danh Hồ Chí Minh
Để đánh lạc hướng khi hoạt động tại Trung Quốc, Hồ Chí Minh lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Tên này được sử dụng từ ngày 13 tháng 8 năm 1942 khi ông đi đến Trung Quốc.
Thẻ hội viên Hồ Chí Minh
Khi bị bắt tại Túc Vinh ngày 27 tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh bị phe Tưởng Giới Thạch nghi ngờ là gián điệp cộng sản và bị bắt giải đi giam qua 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây. Khi kiểm soát giấy tờ thì thấy thẻ hội viên Hồ Chí Minh là “Hội Ký Giả Thanh Niên Trung Quốc”.
Biệt danh Hy Sinh
Với bút hiệu Hy Sinh, Hồ Chí Minh làm bài thơ “Chơi Giăng” đăng trên tạp chí Việt Nam Độc Lập, số 134, ngày 21 tháng 8 năm 1942.
Biệt danh Cụ Hoàng
Khi đi đến Bixichai để gặp các cơ quan của Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít đối với nhóm của Hồ Chí Minh, ông được giới thiệu là “Cụ Hoàng”. Đây cũng là tên công khai của Hồ Chí Minh trên giấy tờ khi đi giao thiệp.
Ký tên C.M.Hồ
Năm 1945, Hồ Chí Minh ký tên là C.M. trên các tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chứng thực danh nghĩa của Nguyễn Ái Quốc
Trong số tất cả các báo của Đảng, chỉ có một tờ báo không mang cái tên “có tính chất lật đổ” và có thể cấp cho tôi một giấy chứng nhận thuận tiện, đó là báo Thế Giới. Tôi đề nghị các đồng chí xin cho tôi một giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới. Tên của tôi sẽ là L.M. Wang.”
Thông báo thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ngày 27 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi đồng chí Sota, liên đoàn chống đế quốc tại Berlin, thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập. Thư ký tên Paul. Còn một số thư khác cũng được ký tên Paul.
Báo cáo về tình hình Mã Lai và Đông Dương
Ngày 2 tháng 3 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông, Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về tình hình Mã Lai, Đông Dương và việc gửi 3 học sinh đi học. Cuối thư đề nghị “có thể mua cho tôi hối phiếu của công ty xe lửa tốc hành Mỹ đề tên T.V.Wang và gửi bưu điện cho tôi.”
Thông tin liên hệ của Nguyễn Ái Quốc
Tiết Nguyệt Lâm, 1930. Địa chỉ nhận giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.
Một chiến dịch điên cuồng tìm diệt cộng sản
Source: New Man, 1933
Bí danh này được gửi cho luật sư Lôdơbi, người đã có công giúp Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù Anh ở Hongkong.
Source: Linov, 1934
Tại Viện Nghiên Cứu các vấn đề thuộc địa, năm học 1934-1935.
Source: Teng Man Huon, 1935
Tháng 8 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ 7 Quốc Tế Cộng Sản. Trong bản kê khai để tham dự đại hội ngày 16 tháng 8, ông có ghi: Họ, tên, bí danh trong đảng hiện nay: Teng Man Huon. Họ tên bí danh trong đại hội: Lin. Thẻ mang số 154 ghi tên: Lin, thuộc Đảng CS Đông Dương.
Source: Hồ Quang, 1938
Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang.
Source: P.C. Lin (P.C. Line), 1938
Từ Trung Quốc Nguyễn Ái Quốc viết hằng chục bài gửi về nước đăng trên Notre Voix, ký tên P.C. Lin, P.C. Line, Line (đều là của Lin).
Source: D.C. Lin, 1939
Bút hiệu D.C. Lin có bài viết trên báo Dân Chúng xuất bản tại Saigon.
Bí danh trong thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương
Đầu thư đề ngày 23 tháng 4, cuối thư đề 24 tháng 4, K.V. thông báo những cán bộ được cử về nước theo đường dây liên lạc. Trong thư, ông nhắc nhở công tác bảo vệ Đảng, giữ gìn bí mật, duy trì chế độ báo cáo giữa Đảng Cộng Sản Đông Dương với Quốc Tế Cộng Sản và đề nghị Trung ương ghi nhận nhiệm vụ của mình đã được Ban Phương Đông xác định.
Người Cháu Nuôi của Bác
Năm 1959, K.V. viết bài “Người Cháu Nuôi của Bác” đăng trên báo Nhân Dân ngày 27 tháng 12 năm 1959.
Danh sách những người bị bắt theo báo cáo của cơ quan an ninh Pháp
Lão Trịnh, Năm, Lý Phát, Viên, và Tống Văn Sơ là những người được ghi chú trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trước khi ông bị bắt ở Hongkong (1918/1931). Tên gọi khác của Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành, còn Vương Sơn Nhi và Lý Thụy là các bí danh của ông.
- Lão Trịnh, 1931
- Năm, 1931
- Lý Phát, 1931
- Viên, 1931
- Tống Văn Sơ, 1931
Tống Văn Sơ là tên ghi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong, ngày 6 tháng 6 năm 1931.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh