Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan và bài thơ
Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ phụ nữ nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ 19. Bài thơ “Qua đèo Ngang” là một trong những tác phẩm nổi bật của bà, được sáng tác vào thời điểm bà đến Huế nhận chức và đi qua đèo Ngang.
Nội dung bài thơ
Bài thơ “Qua đèo Ngang” có nội dung xoay quanh chủ đề nhớ nhà, nhớ quê hương và tình cảm thương đau cho thân gái nơi đường xa. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ nhẹ nhàng, điềm tĩnh để tả lại nỗi buồn man mác, cảm xúc sâu lắng của nhân vật trong bài thơ. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.
Phong cách sáng tác
Bài thơ “Qua đèo Ngang” thể hiện phong cách sáng tác trầm buồn, điềm tĩnh của Bà Huyện Thanh Quan. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ tinh tế, điệu đà để thể hiện nỗi đau thương của nhân vật. Bài thơ còn mang tính tự sự ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, sự nhớ nhà của tác giả.
Tổng kết
Bài thơ “Qua đèo Ngang” là một tác phẩm sáng tác đầy tình cảm, phản ánh tâm trạng nhân vật và cũng là sự phản ánh của tác giả về quê hương, nơi gắn bó của mình. Bài thơ còn thể hiện được phong cách sáng tác đặc trưng của Bà Huyện Thanh Quan.
Đèo Ngang – Cảnh vật hoang sơ
Bóng xế tà và cảm xúc buồn sầu
Chỉ trong 8 câu thơ, tác giả đã diễn tả được cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Từ “bóng xế tà” thể hiện không gian và thời gian ở đèo Ngang, với nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai.
Cảnh vật thiên nhiên và tính chất hiu quạnh
Mắt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ “chen” đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này.
Con người và sự mong manh của cuộc sống
Hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là “tiều vài chú”. Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá.
Đèo Ngang là một trong những địa danh đẹp và đầy ý nghĩa ở Việt Nam. Những câu thơ của tác giả đã tạo nên một cái nhìn đầy sâu sắc về vẻ đẹp hoang sơ của cảnh vật, cùng với sự mong manh của cuộc sống và nỗi buồn của con người.
Những bài Phân tích bài thơ Qua đèo ngang
Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy
Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái da da” đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe vẳng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quanh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương. Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả “nhớ nước” và “thương nhà”.
Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hịu quạnh của đèo Ngang
Việc sử dụng hai từ láy “lom khom” và “lác đác” vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn.
Phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Mở đầu
Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thúc thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm.
Phân tích
Đoạn thơ “Dừng chân nghỉ lại trời non nước/Một mảnh tình riêng ta với ta” khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chốn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Câu thơ “Dừng chân nghỉ lại” đã khiến người đọc cảm thấy đắm chìm trong không gian, cảm nhận được sự độc đáo và sâu lắng của tác giả. Thủ pháp nghệ thuật độc đáo của Bà Huyện Thanh Quan đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên.
Kết luận
Bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan đã lấy động tả tĩnh, thủ pháp nghệ thuật độc đáo để lột tả nỗi lòng khắc khoải, nỗi buồn đầy cảm xúc của tác giả. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Phân tích bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông như núi, như người Việt Nam
Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang. Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng. Câu thơ xuất hiện cụm từ “bóng xế tà” và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ “tà” như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã.
Ca dao cũng đã có câu:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau
Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” và hình ảnh hoàng hôn tại Hoành Sơn
Trong bài thơ “Qua đèo Ngang”, tác giả đã bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai.
Khung cảnh hoang vắng của đèo Ngang
Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động.
Sự u hoài được nhấn mạnh bằng ngôn ngữ và tả hình
Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.
Tìm hiểu về bài thơ “Chim Quốc Gia Gia”
Từ ngữ ẩn dụ trong bài thơ
Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cảm giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ?
Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia
Phải chăng đây là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình.
Tâm sự u hoài về quá khứ
Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá!
Tả cảnh đèo Ngang qua bài thơ “Chim quốc, chim gia gia”
Bức tranh đặc sắc trong sáng tác thơ của Huyện Thanh Quan
Tất cả được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ “ta với ta” như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan.
Thể hiện tình cảm và tâm sự sâu sắc của Huyện Thanh Quan
Bài thơ “Chim quốc, chim gia gia” là một tác phẩm xuất sắc thể hiện tình cảm và tâm sự sâu sắc của Huyện Thanh Quan với quê hương, gia đình và đất nước. Điều đó được thể hiện qua câu thơ “một mảnh tình riêng ta với ta” đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương.
Giá trị của bài thơ và tác giả
Phân tích bài thơ “Chim quốc, chim gia gia” giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp ta thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Tác phẩm của Huyện Thanh Quan là một điển hình cho tài năng và sự tinh tế trong việc sáng tác thơ. Bài thơ đã thành công vượt qua những tác phẩm tả cảnh đèo Ngang khác, vì trong đó có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời.
Điệp từ “chen” trong bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Trong bài thơ, Điệp từ “chen” được sử dụng để khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Trong đó, từ “lom khom” nhấn mạnh sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn.
Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người:
“Người tiều phu đi lượm củi vẫn
Tạo cảm giác vô định”
Từ “lom khom” và “vô định” cùng nhau thể hiện tâm trạng của người tiều phu khi phải sống trong cảnh khó khăn, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.
Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn:
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Tiếng chim cuốc đau lòng não ruột vang lên giữa chốn rừng sâu vắng lặng, đó cũng có thể là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh – hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.
Cảm nhận về bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Về vần và cách miêu tả
Cả bài thơ được gieo vần “a” như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.
Về cảm xúc
Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài “Chiều hôm nhớ nhà” của bà.
Tình cảm đối với Bà Huyện Thanh Quan
Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.
Phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Về xã hội phong kiến và phụ nữ
Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa nữa.
Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày “ta với ta” nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ “Qua Đèo Ngang” vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.
Tâm trạng tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang
Tâm trạng của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang là sầu muộn, cô đơn, nhớ quê hương. Nhà thơ buộc phải thốt lên giãi bày “ta với ta” để thể hiện sự cô đơn của mình. Dù vậy, tác giả vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước và tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.
Cảm nhận bài thơ Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan
Bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm thi ca đẹp, gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Tác phẩm thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước da diết của tác giả.
Tác phẩm thơ “Qua đèo ngang” và phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan
“Qua đèo ngang” là một tác phẩm thơ của bà Huyện Thanh Quan, một nhà thơ nữ Việt Nam nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm này thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương và thân nhân của một con người trong cảnh vật rừng núi hiu quạnh.
Phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ có phong cách rất riêng biệt, trong đó đặc trưng là sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng và trầm buồn. Bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước.
Phân tích tác phẩm “Qua đèo ngang”
Tác phẩm “Qua đèo ngang” được sáng tác bởi bà Huyện Thanh Quan trong hoàn cảnh vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh. Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc “bóng xế tà”. Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có “cây cỏ chen lá, đá chen hoa” hiu quạnh.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Qua_%C4%91%C3%A8o_Ngang