Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
Giá trị nghệ thuật và tình cảm biết ơn
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương mang trong mình một giá trị nghệ thuật đáng kể. Tác phẩm này không chỉ là một bản thơ thông thường, mà còn là một tác phẩm văn chương đặc biệt thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngôn từ trong bài thơ được sắp xếp khéo léo và uyển chuyển, tạo nên một sự tương tác hài hòa giữa âm điệu và ý nghĩa. Câu thơ lạc quan và truyền cảm hứng trong bài thơ đã góp phần làm nổi bật những tình cảm biết ơn và tưởng niệm sâu sắc của người dân Việt Nam đối với Bác Hồ.
Tài hoa của Viễn Phương
Tác giả Viễn Phương đã thể hiện tài hoa văn chương của mình thông qua bài thơ “Viếng lăng Bác”. Từ ngữ và hình ảnh trong tác phẩm được sắp xếp một cách khéo léo để truyền đạt sự kính trọng và tình yêu thương đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ này là một minh chứng cho khả năng sáng tạo và tinh thần nghệ sĩ của Viễn Phương.
Tác phẩm văn hóa và lịch sử
“Viếng lăng Bác” không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn chương, mà còn là một tài liệu quan trọng về văn hóa và lịch sử của dân tộc. Nó giúp thể hiện lòng biết ơn và tưởng niệm sâu sắc của người Việt Nam đối với những đóng góp vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang lại cho đất nước. Tác phẩm này còn là một nguồn cảm hứng và sự tôn vinh cho tinh thần đoàn kết và quốc gia độc lập.
Tóm lại, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương không chỉ có giá trị nghệ thuật, mà còn thể hiện sự biết ơn và tưởng niệm sâu sắc đối với
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài mẫu 1
1. Mở bài
Trong phần này, tác giả giới thiệu về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương và giới thiệu tác giả.
2. Phân tích chi tiết
Tác giả phân tích chi tiết về nội dung của bài thơ, bao gồm:
- Phần 1: Tác giả thể hiện tình cảm của người dân đối với Bác Hồ bằng những câu hát trong dòng nhạc ca dao “Cả làng yêu người”.
- Phần 2: Tác giả mô tả về những hình ảnh của lễ viếng Bác Hồ, như sân khấu trang trọng, những bông hoa tươi thắm và người dân đến viếng thăm.
- Phần 3: Tác giả miêu tả về cảm nhận của người dân sau khi viếng thăm Bác Hồ, như sự khóc lóc và những lời chúc tụng.
3. Nhận xét
Bài phân tích này đầy đủ và cụ thể, giúp độc giả hiểu rõ về nội dung của bài thơ Viếng lăng Bác. Tuy nhiên, có thể cần thêm ý kiến đánh giá của tác giả về bài thơ để giúp độc giả hiểu sâu hơn về tác phẩm.
Thân bài
Khổ thơ 1:
Tác giả ở tận miền Nam mãi sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc. Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh” diễn tả con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh” màu xanh bất diệt.
Khổ thơ 2:
“Ngày ngày” là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ: nếu mặt trời soi sáng cho nhân loại thì Bác Hồ là mặt trời của cả dân tộc Việt Nam, mang đến ánh sáng độc lập, tự do cho dân tộc. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn. Người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác.
Khổ thơ 3
Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Viễn Phương hòa cùng dòng người đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình.
Khổ thơ cuối
Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ.
Bác Hồ và niềm mong ước hòa bình
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên khi đất nước được hòa bình, độc lập Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Bầu trời bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc đã phải ra đi. Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng vẫn “nghe nhói ở trong tim”.
Kết bài
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương có giá trị nghệ thuật và nội dung rất lớn, thể hiện tình cảm biết ơn và tưởng niệm sâu sắc đối với Bác Hồ của người con dân Việt Nam.
Viếng lăng Bác – Bài mẫu 2
I. Mở bài
Tác phẩm “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động khi vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ có giọng trang trọng, tha thiết thể hiện niềm yêu thương và biết ơn đối với Bác.
II. Thân bài
1. Cảm xúc khi ở trước lăng
Tác giả Viễn Phương thể hiện tình cảm chân thành giản dị, chân thành của một người con miền Nam khi đến viếng lăng Bác. Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gợi lên tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam bao nhiêu năm mong mỏi được ra lăng viếng Bác.
2. Niềm tưởng niệm về Bác Hồ
Viễn Phương thể hiện niềm tưởng niệm sâu sắc và tình cảm kính trọng đối với Bác Hồ trong câu thơ “Thăm Bác, cúi chào Bác, thắp hương, viếng mộ, đặt hoa”. Tác giả cảm nhận được sự hiện diện của Bác trong từng hơi thở của dân tộc, từng cánh đồng, từng con người Việt Nam.
3. Ước mơ hòa bình
Niềm khát khao cháy bỏng của Viễn Phương và của mỗi người dân Việt Nam là được ở bên cạnh Bác Hồ, lãnh đạo dân tộc đến hòa bình, độc lập và thịnh vượng. Câu thơ “Niềm khao khát cháy bỏng được ở lại bên cạnh Người chỉ để làm ‘một con chim hót’, ‘một đóa hoa’, ‘một cây tre trung hiếu'” thể hiện niềm ước muốn mãnh liệt của tác giả.
III. Kết bài
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương có giá trị nghệ thuật và nội dung rất lớn, thể hiện tình cảm biết ơn và tưởng niệm sâu sắc đối với Bác Hồ của người con dân Việt Nam.
Phân tích sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Viếng lăng Bác
1. Sử dụng đại từ xưng hô “con” và hình ảnh hàng tre
Đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân mật, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha sau nhiều năm mong mỏi. Cách nói giảm nói tránh, cùng việc sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách nói thân tình của diễn tả tâm trạng mong mỏi của tác giả.
Hình ảnh hàng tre là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa: với tính chất tượng trưng, hình ảnh hàng tre gợi lên những liên tưởng thân thuộc của hình ảnh làng quê, đất nước đã thành biểu tượng của dân tộc. Cây tre tượng trưng cho khí chất, tâm hồn, sự thẳng thắn, kiên trung của con người Việt Nam. Từ “Ôi” cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào về phẩm chất ngay thẳng, mạnh mẽ của dân tộc ta.
2. Sự thương nhớ của tác giả khi đứng trước lăng Người
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả tạo ra được cặp hình ảnh thực và ẩn dụ song đôi: mặt trời thiên nhiên rực rỡ và hình ảnh Người. Tác giả ẩn dụ hình ảnh mặt trời nói về Bác, người mang lại nguồn sống, ánh sáng hạnh phúc, ấm no cho dân tộc.
Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ là hình ảnh thực diễn tả nỗi xúc động bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn của người dân khi vào lăng.
Hình ảnh thể hiện sự kết tinh đẹp đẽ
Đoàn người vào viếng Bác
Hình ảnh thực, đây còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của dân tộc ta nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác. Bảy mươi chín mùa xuân: là hình ảnh hoán dụ chỉ số tuổi của Bác, cuộc đời Bác tận hiến cho sự phát triển của đất nước dân tộc.
Niềm biết ơn thành kính dần chuyển sang sự xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: “vầng trăng sáng dịu hiền”. Những vần thơ của Bác luôn gắn chặt với ánh trăng, hình ảnh “vầng trăng” gợi lên niềm xúc động, và khiến ta nghĩ tới tâm hồn thanh cao của Bác. Ở Người là sự hòa quyện giữa sự vĩ đại thanh cao với sự giản dị gần gũi.
Nhà thơ xúc động, đau xót trước sự ra đi mãi mãi của Người
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù Người ra đi, nhưng sự ra đi đó hóa thân vào thiên nhiên, vào dáng hình xứ sở, giống như Tố Hữu có viết “Bác sống như trời đất của ta”.
Nỗi lòng của tác giả trước di hài Bác Hồ
Nỗi lòng “nghe nhói ở trong tim” của tác giả chính là sự quặn thắt tê tái trong đáy sâu tâm hồn khi đứng trước di hài của Người, đó chính là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Cảm xúc khi rời lăng của nhà thơ
– Cuộc chia ly lưu luyến bịn rịn, thấm đẫm nước mắt của tác giả:
- Mai về miền Nam thương trào nước mắt:
như một lời giã từ đặc biệt, lời nói diễn tả tình cảm sâu lắng, giản dị. Cảm xúc “dâng trào” nỗi luyến tiếc, bịn rịn, không muốn xa rời. Ước nguyện chân thành muốn được hóa thân thành “chim”, cây tre”, “đóa hoa” để được ở gần bên Bác. Điệp từ “muốn làm” diễn tả trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến của nhà thơ.
– Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ như một cách kết thúc khéo léo, hình ảnh cây tre trung hiếu được nhân hóa mang phẩm chất trung hiếu như con người. “Cây tre trung hiếu” mang bản chất của con người Việt Nam trung hiếu, thẳng thắn, bất khuất đó cũng là sự tự hứa sống có trách nhiệm với sự nghiệp của Người.
Viếng lăng Bác là bài thơ đẹp và hay gây xúc động trong lòng người đọc. Nhân dân Việt Nam trung thành, xúc động với con đường cách mạng mà Người vạch ra.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài mẫu 3
Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương thể hiện qua giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị, hàm súc. Tác phẩm được phân thành 4 khổ thơ, mỗi khổ mang một cảm xúc khác nhau của tác giả.
Trong khổ 1+2, nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình khi đứng ngoài lăng Bác, cảm nhận được sự hiện diện của Người trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Khổ 3 miêu tả cảm xúc của nhà thơ khi đặt chân vào trong lăng Bác, cảm nhận được sự vắng mặt của Người nhưng cũng đầy ý nghĩa và cảm hứng. Trong khổ 4, nhà thơ thể hiện sự luyến tiếc, dâng trào cùng với ước nguyện được gần bên Bác, sống và làm việc vì sự nghiệp của Người.
Tác phẩm Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một tác phẩm nghệ thuật đầy tình cảm và ý nghĩa, thể hiện sự tôn kính và kính yêu đối với Bác Hồ
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Bài thơ này được viết bởi một người con ở tận miền Nam xa xôi, trở về thăm Bác Hồ sau khi Người đã đi xa. Viễn Phương là một nhà thơ nổi tiếng trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam và được coi là tác giả thành công nhất khi viết về Bác Hồ.
Những cảm xúc trong bài thơ
Bài thơ chứa đựng trong đó nỗi niềm đau xót và sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Tác giả mở đầu bài thơ bằng những lời giới thiệu chân thành với Bác Hồ kính yêu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Tác giả không dùng những lời mời chào mỹ miều để miêu tả cuộc viếng thăm mà thể hiện sự chân thành của mình. Hai từ “miền Nam” trong bài thơ nhấn mạnh sự xa xôi giữa hai đầu Tổ quốc.
Giá trị của bài thơ
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được coi là tác phẩm thành công nhất của Viễn Phương khi viết về Bác Hồ. Nó chứa đựng những nỗi niềm, tình cảm chân thành và lòng tôn kính sâu sắc của một người con với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Tác phẩm này đã trở thành một biểu tượng của sự tôn kính và sự tri ân đối với Bác Hồ không chỉ ở miền Nam mà còn trên toàn quốc.
Mặt trời của dân tộc Việt Nam trong lăng Bác Hồ
Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ – Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc.
Hình ảnh mặt trời đã được sử dụng nhiều trong thơ ca về Bác Hồ
Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”. (Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng.
Nỗi đau xót của nhà thơ trước sự bất biến của thiên nhiên
Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.
Xúc động trước lời từ biệt với Hồ Chủ tịch
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào.
Ý nghĩa của bài thơ “Viễn Phương”
Trong bài thơ “Viễn Phương”, nhà thơ Xuân Quỳnh đã khắc họa hình ảnh của cuộc gặp gỡ giữa Viễn Phương và Hồ Chủ Tịch cũng như tâm trạng của mình trong khoảnh khắc đó.
Ước nguyện của nhà thơ
Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”.
Tình cảm của nhà thơ
Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.
Tình yêu đất nước
Hình ảnh cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối.
Viếng lăng Bác Hồ – tác phẩm thể hiện sự tin tưởng của người dân Việt Nam vào Bác Hồ
Trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, tác giả Viễn Phương muốn khẳng định sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.
Một niềm mong ước cháy bỏng của tác giả và mỗi người dân Việt Nam
Khổ thơ của tác giả thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của mỗi người dân Việt Nam, đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.
Bài thơ mang đến nhiều cảm xúc
Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Lối thơ tám chữ cấu trúc như một câu chuyện kể
Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.
Hệ thống biện pháp tu từ nói giảm nói tránh
Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.
Bác Hồ và chuyến viếng lăng
Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.
Lời chú thích của tác giả
Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình.
Miền Nam – Nỗi nhớ của Bác Hồ
Miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp:
“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Nghệ thuật nói giảm nói tránh trong bài thơ
Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”.
Cây tre – Biểu tượng của dân tộc
Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh. Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta.
Mặt trời đỏ rực trong lăng
Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên. Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia.
Ý nghĩa của “ngày ngày” trong tác phẩm
Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.
Ấn tượng về đoàn dòng người vào viếng Bác
Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc.
Nỗi nhớ dâng tràng hoa
Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ. Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người.
Số tuổi đáng kính
“Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.
Khổ thơ đắt giá
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến và tình yêu trăng của Bác Hồ
Trong thơ của nhà thơ Nguyễn Khuyến, vầng trăng thiên nhiên luôn là hình ảnh được nhắc đến nhiều lần. Có thể nhà thơ muốn nói đến vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất, một niềm đam mê và tình yêu mãnh liệt của Người.
Vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến
- “Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” - “Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Những câu thơ trên đều chứa đựng hình ảnh của vầng trăng, mang đến cho độc giả cảm giác thơ mộng và lãng mạn.
Bác Hồ và tình yêu trăng
Bên cạnh đó, Bác Hồ cũng là người yêu thích vầng trăng hơn bất kỳ ai khác. Thơ của Người cũng luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Vì vậy, có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến muốn nói đến tình yêu trăng của Bác Hồ trong bài thơ này.
Lời trách cứ của nhà thơ
Sau khi đã miêu tả tình yêu thương đặc biệt của Bác Hồ dành cho vầng trăng, nhà thơ Nguyễn Khuyến không thể kìm nén nổi nỗi đau xót khi nhắc đến sự ra đi của Người. Trong đó, lời trách cứ của nhà thơ làm nổi bật sự đau đớn và xót xa trong lòng người đọc:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Lời trách cứ ấy cũng thể hiện niềm hy vọng cuối cùng của nhà thơ – mong rằng Bác Hồ sẽ được hòa mình cùng vầng trăng thiên nhiên, luôn tỏa sáng và trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy.
Tầm quan trọng của cây tre trong đời sống tinh thần người Việt
Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù, cây tre đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt.
Bát ngát: cảm xúc cao lớn khi đối diện với hàng tre
Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”. Từ này tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người.
Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán: “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam/Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Sự bất khuất của dân tộc Việt Nam qua thời gian
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên.
Màu xanh – biểu tượng của sự kiên cường, bất diệt của dân tộc Việt Nam
Từ láy “xanh xanh” được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh” màu xanh bất diệt. “Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta.
Điều cuối cùng của Người cha già
Viễn Phương đã được gặp Người cha già mà ông hằng yêu quý và kính trọng. Người đang nằm trong giấc ngủ bình yên, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.
Niềm mong ước cuối cùng của Người cha già
Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”.
Một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả
Bác Hồ như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Ánh sáng trong không gian
Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Thứ ánh sáng đang lan tỏa trong không gian có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%85n_Ph%C6%B0%C6%A1ng