Cảm nhận về bài thơ Thương vợ
Giới thiệu chung
Trong xã hội xưa, các nhà Nho thường dùng thơ ca như một “phương tiện” để nói chí, tỏ lòng, có rất ít những tác phẩm viết về cuộc sống sinh hoạt với những vấn đề “vặt vãnh” thường ngày. Thơ ca trung đại viết về người phụ nữ đã ít, viết về người vợ càng hiếm hoi hơn.
“Thương vợ” của Trần Tế Xương là một trong số rất ít những bài thơ hiếm hoi ấy, nhà thơ không chỉ ca ngợi công lao, tấm lòng của vợ mà còn viết ngay khi vợ còn sống. Đây là một điều đặc biệt rất hiếm gặp trong thi ca, bởi các nhà văn, nhà thơ xưa thường viết về vợ khi người bạn đời kết tóc trăm năm của mình đã từ giã cõi đời. Thương vợ là bài thơ nổi tiếng nhất mà Tú Xương viết về vợ, đây cũng là tình yêu thương, sự trân trọng mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người vợ của mình.
Bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Thương vợ
1. Cảm nhận về bài thơ Thương vợ, mẫu số 1 (Chuẩn):
Đảo vị ngữ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để diễn tả nỗi cực nhọc, sự đơn độc của bà Tú trong công việc mưu sinh. “Lặn lội thân cò” gợi ra sự vất vả, lam lũ, đáng thương của bà Tú…
Trong bài thơ Thương vợ, Tú Xương đã khắc họa một cách chân thật, sống động hình ảnh của người vợ chăm chỉ, cần cù trong công việc nuôi sống gia đình. Với những cảnh “lặn lội thân cò”, “eo sèo mảnh đất đầy cát”, nhà thơ đã mô tả rõ nỗi cực nhọc, sự đơn độc của người phụ nữ trong cuộc sống. Đồng thời, bài thơ cũng ca ngợi tấm lòng nhân ái, sự hy sinh của người vợ dành cho chồng và con cái.
Tuy nhiên, bài thơ cũng đưa ra một thông điệp sâu sắc về vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Bà Tú đã chứng tỏ mình là một người phụ nữ kiên cường, mạnh mẽ và tình yêu thương đong đầy. Qua đó, nhà thơ đã truyền tải ý nghĩa về sự quan trọng của phụ nữ trong mỗi gia đình và sự cần thiết phải tôn trọng và đối xử công bằng với họ.
Ngoài ra, bài thơ còn chứa đựng một nét đẹp của văn học dân gian Việt Nam với sự xuất hiện của những từ ngữ thân thuộc, gần gũi với cuộc sống của người dân như “lặn lội”, “eo sèo”. Điều này cho thấy bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một tài liệu quý giá để nghiên cứu văn hóa dân tộc.
2. Tình cảm gia đình và tình yêu thương con người
Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng đã thể hiện được tình cảm gia đình và tình yêu thương con người. Nhân vật bà Tú trong bài thơ đã hy sinh cả đời để nuôi dạy con cái và chăm lo cho gia đình, vì thế mà người ta có thể cảm nhận được tình mẫu tử, tình cha con trong bài thơ. Tác giả còn khắc họa một hình ảnh về sự khắc khổ, cực nhọc của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống thường ngày, nhưng cũng là hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường và đáng tự hào.
Kết bài
Với sự hiểu biết và cảm nhận sâu sắc về tác phẩm Thương Vợ của Trần Tế Xương, ta có thể thấy được giá trị văn học của bài thơ này, đồng thời, hình ảnh về một người phụ nữ Việt Nam với tình cảm gia đình và tình yêu thương con người cũng được khắc họa rõ nét trong bài thơ này.
Đánh giá bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
1. Bối cảnh và tình huống bài thơ
Trong bài thơ Thương vợ, nhà thơ Trần Tế Xương đã miêu tả một bối cảnh đặc biệt, nơi bà Tú xuất hiện trong công việc mưu sinh vất vả cùng gánh nặng gia đình “nuôi đủ năm con với một chồng”. “Quanh năm” gợi ra khoảng thời gian dài đằng đẵng, bà Tú làm công việc buôn bán mưu sinh quanh năm suốt tháng, không có lấy một ngày ngơi nghỉ. “Mom sông” phần đất bồi ven sông chông chênh, đầy hiểm nguy thường trực, đây cũng là nơi bà Tú làm ăn buôn bán.
2. Tính chất của bài thơ
Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương là một bài thơ tình cảm, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của người vợ. Bài thơ này cũng thể hiện sự tôn trọng và biết ơn của nhà thơ dành cho vợ mình.
3. Điểm nhấn của bài thơ
Điểm nhấn của bài thơ là nội dung về sự đơn độc, cực nhọc trong công việc mưu sinh của bà Tú. Tú Xương đã tự coi mình là gánh nặng, không những thế ông còn đặt lên bàn cân để thấy một mình mình có sức “nặng” bằng năm đứa con.
4. Kết luận
Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương là một tác phẩm văn học có giá trị, không chỉ vì nó miêu tả cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội xưa mà còn vì nó thể hiện tình yêu và sự biết ơn của nhà thơ dành cho vợ mình. Bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình, tình yêu và sự hy sinh trong cuộc sống.
Miêu tả nỗi cực nhọc, lam lũ của bà Tú
Nếu hai câu thơ đầu nhà thơ chú ý khắc họa thời gian, không gian làm việc và những gánh nặng của bà Tú thì trong hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ tập trung miêu tả nỗi cơ cực, lam lũ của bà Tú:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Trong hai câu thực, nhà thơ Tế Xương đã đảo vị ngữ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để diễn tả nỗi cực nhọc, sự đơn độc của bà Tú trong công việc mưu sinh. “Lặn lội thân cò” gợi ra sự vất vả, lam lũ, đáng thương của bà Tú. Trong không gian vắng vẻ, luôn thường trực những hiểm nguy “quãng vắng”, bà Tú vẫn kiên cường bươn trải để nuôi sống cả gia đình. “Eo sèo” gợi ra khung cảnh xô bồ, chen lấn, xô đẩy của người mua, kẻ bán. Hai câu thơ đã tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa nỗi vất vả, cực nhọc của bà Tú, qua đó còn thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm của ông Tú dành cho người vợ tào khang của mình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ở đây, nhà thơ Tú Xương đã mượn thành ngữ dân gian để nói về cuộc đời của bà Tú. “Một duyên hai nợ” gợi ra nỗi vất vả, sự éo le trong số phận của bà Tú. Bà chỉ có một cái “duyên” nhưng lại phải chịu đến đến hai “cái nợ” khi trở thành vợ của ông Tú.
Đôi vai gầy yếu của bà Tú
Bà Tú phải gánh gồng tất cả những công việc gia đình và cả những lo toan của cuộc sống, bà không chỉ phải lo cho con mà còn phải gánh theo chồng. Cuộc sống hẩm hiu, thiệt thòi là vậy nhưng bà không hề oán thán mà vẫn chấp nhận “âu đành phận”, bà âm thầm gánh vác tất cả, âm thầm hi sinh vì chồng, vì con. Dù có phải trải qua bao sóng gió dãi dầu “năm nắng mười mưa” thì bà vẫn không ngại khó, ngại khổ “dám quản công”.
Bức chân dung đẹp đẽ của bà Tú
Qua việc sử dụng linh hoạt phép đối kết hợp vận dụng thành ngữ dân gian, Tú Xương đã hoàn thiện bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của bà Tú: Chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh.
Thán phục sự chịu đựng của bà Tú
Câu thơ còn như một lời tự trách của nhà thơ với sự “vô dụng”, bất lực của bản thân khi chứng kiến sự vất vả của vợ mà không thể làm gì. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không”
Chỉ trích sự bất công của xã hội
Hai câu thơ cuối như một lời trách móc, một lời chửi với “thói đời”, với sự bất lực của bản thân. “Thói đời” ở đây có thể hiểu là xã hội phong kiến nhiều bất công đã đẩy con người vào cảnh bần cùng. Không chỉ chửi thói đời, ông còn chửi chính bàn thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”.
Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương
Bài thơ Thương Vợ của Tú Xương là một tác phẩm xuất sắc trong văn học Việt Nam. Bài thơ thể hiện tình yêu thương, sự hi sinh của người vợ trong gia đình. Tác giả đã sử dụng nhiều phép tu từ tinh tế để mô tả vẻ đẹp và sức mạnh của tình thương trong cuộc sống. Đặc biệt, câu thơ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không” đã góp phần làm nên sự ấn tượng và giá trị của bài thơ.
Tú Xương và thời đại
Tú Xương (1870-1907), tên thật là Trần Tế Xương, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông gắn liền với giai đoạn đau thương nhất của đất nước khi thực dân Pháp hoàn toàn nắm quyền thống trị trên đất nước Việt Nam, triều đình phong kiến thì sợ hãi, nhu nhược trước kẻ thù, thối nát và khốn nạn với nhân dân.
Tú Xương và ước mơ
Tú Xương từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, sáng dạ, tôn thờ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho học, muốn tham gia vào chốn quan trường để giúp đời giúp nước. Thế nhưng khốn nỗi, cả cuộc đời ông dù gắn liền, tập trung hết tâm huyết vào khoa cử thế nhưng thi đến tận 8 lần mà vẫn bất đắc chí. Cuối cùng chỉ được chức tú tài, hữu danh vô thực, nhà cửa lại mất hết, điều đó đã để lại trong lòng ông những nỗi khốn khổ, đắng cay và phẫn uất vô cùng với cái xã hội Tây-ta thối nát, lẫn lộn.
Người vợ của Tú Xương
Phúc phận cũng cho ông có được một người vợ hiền, đó là bà Phạm Thị Mẫn, người phụ nữ đại diện cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam với sự tần tảo, thủy chung, chịu thương chịu khó, cả đời hết lòng hy sinh cho gia đình.
Thương Vợ – tình cảm đáng trân trọng
Bài thơ Thương Vợ của Tú Xương là một tác phẩm xuất sắc thể hiện tình cảm đáng trân trọng của nhà thơ dành cho người vợ hiền của mình. Bài thơ không chỉ là sự tôn vinh bà vợ của Tú Xương, mà còn thể hiện tình yêu thương sâu sắc của ông dành cho người phụ nữ đặc biệt này.
Tú Xương và tình cảm với vợ
Hiểu được nỗi vất vả của vợ thế nên Tú Xương đã nhiều lần đưa hình ảnh bà vào thơ ca của mình như một hình mẫu điển hình để thể hiện sự trân trọng, yêu thương, và cảm thông với sự vất vả của bà.
Bài thơ Thương Vợ
Điển hình là bài thơ Thương Vợ, một trong những bài thơ được biết đến nhiều nhất của Tú Xương trong mảng thơ trữ tình, bên cạnh lĩnh vực trào phúng vốn là sở trường của ông. Dẫu là một bài thơ trữ tình thế nhưng Thương vợ vẫn thấp thoáng đâu đó cái nét trào phúng, vốn là nét riêng của Trần Tế Xương không thể lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào.
Tú Xương và đề tài người vợ
Không chỉ vậy, với đề tài là người vợ thì Tú Xương vốn dĩ đã khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, ông là một trong số các nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học lâu đời nhưng lại có cái nhìn rất khoáng đạt và thương cảm về người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Tú Xương so với Nguyễn Du
Bên cạnh đại thi hào Nguyễn Du nhìn về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh Thúy Kiều với tư tưởng hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, thì Tú Xương lại có một bước tiến khác khá thú vị và độc đáo khi viết về người vợ tần tảo mưa nắng của mình bằng những câu từ tếu táo, thế nhưng ẩn chứa sâu trong đó là sự cảm thông sâu sắc, sự trân trọng, biết ơn với người vợ kết tóc của mình.
Tú Xương – một nhà thơ hiếm có trong văn học Việt Nam
Có thể nói rằng Tú Xương là một nhà thơ hiếm trong văn học Việt Nam, với những đề tài mới lạ, với giọng thơ trào phúng sâu sắc bên cạnh cuộc đời nhiều uất hận, cay đắng.
Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Tú Xương
Trong bài thơ hình ảnh bà Tú hiện lên thông qua nỗi lòng thương yêu của Tú Xương trước hết là ở hai câu đề. “Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng”
Bối cảnh thời gian và không gian mưu sinh của bà Tú
Ở câu khai đề tác giả đã tái hiện bối cảnh thời gian và không gian mưu sinh của bà Tú. Với từ “quanh năm”, gợi cảm giác triền miên, từ ngày này qua ngày khác, mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, dường như người phụ nữ này chẳng có lúc nào được ngơi nghỉ, đó là một khoảng thời gian rất khắc nghiệt của cả đời bà Tú. Thứ hai là không gian “mom sông”, là chòm đất ở bờ sông nhô ra giữa lòng sông, có thuyền đò neo đậu, rất cheo leo, nguy hiểm không hợp để làm ăn đi lại lâu dài.
Công việc buôn bán vất vả và cơ cực vô cùng
Ấy thế mà bà Tú vẫn phải xông pha, chen lấn để tranh hàng, để giành khách kiếm miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Từ bối cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy hình ảnh bà Tú hiện lên với công việc buôn bán vất vả và cơ cực vô cùng.
Tái hiện hình ảnh bà Tú thông qua từ ngữ
Trước hết từ “lặn lội” là một từ tượng hình, gợi ra dáng vẻ vất vả nhọc nhằn xông pha nơi đầu sóng ngọn gió của bà Tú, từ tượng thanh “eo sèo” lại tái hiện hình ảnh của bà Tú trong công việc mưu sinh đời thường, đó những tiếng ì sèo mặc cả, ngã giá, bon chen, giành khách giữa buổi chợ đông, cốt sao để thu được nhiều lợi tức nhất.
Bối cảnh làm việc của bà Tú
Tác giả cũng tái hiện lại bối cảnh làm việc của bà Tú, có phần cụ thể và chi tiết hơn. “Khi quãng vắng” là bối cảnh không gian vắng vẻ, heo hút, đồng thời cũng cho chúng ta thấy bối cảnh thời gian khi sáng sớm hoặc khi tối muộn, cả không gian và thời gian đều chứa đựng trong đó nhiều bất trắc nguy hiểm. “Buổi đò đông” cũng là một môi trường làm việc quá khó khăn, lắm bon chen, thị phi, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ cho bà Tú trong lúc mải mưu sinh.
Hình ảnh “Thân cò”
Không chỉ dừng lại ở việc tái hiện hình ảnh bà Tú trong lao động bằng những chi tiết tả thực, mà Tú Xương còn dùng một hình ảnh ẩn dụ rất kinh điển trong ca dao Việt Nam ấy là “thân cò”. Hình ảnh này gợi ra thân ảnh bà Tú đang đơn độc, lầm lũi cặm cụi trong công việc mưu sinh trong bối cảnh công việc vất vả, khó nhọc, vô cùng đáng thương.
Bài thơ Thương vợ của Tú Xương
Nhưng đỉnh cao mảng thơ này của ông phải nói là bài thơ Thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thăn cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói dời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Đây là một bài thơ trữ tình – trào phúng đậm sắc dân gian đầy cảm động.
Cảm nhận về bài thơ Thương vợ
Nhà thơ đã cực tả nỗi nhọc nhằn lao khổ của bà, người đàn bà đã một thân một bóng tần tảo nuôi con và chồng. Qua đây, ông ca ngợi đức tính đảm đang, lòng hi sinh thầm lặng cao cả một bậc hiền phụ.
Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói về sự vất vả và nhẫn nại của vợ mình một cách tự nhiên, thân mật, dí dỏm và hóm hỉnh.
Ông vừa giới thiệu cái gánh nặng chồng con trên vai bà vừa cho thấy một cách gián tiếp tình cảm sâu nặng của mình dành cho vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Kết
Hai câu thơ là một lời chấm công.
Giải mã sự vất vả của người phụ nữ trong bài Thương vợ
Hoàn cảnh thời gian và hoàn cảnh không gian
Trong câu thơ đầu, bản thân công việc buôn bán tuy chưa đủ thể hiện được sự vất vả hay nhẫn nại nhưng hoàn cảnh thời gian (quanh năm) và hoàn cảnh không gian (ở mom sông) thì lại nói khá rõ về điều đó. Quanh năm, chỉ hai tiếng ấy thôi cũng đã chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian nối tiếp nhau triền miên không dứt, suốt từ đầu năm đến cuối năm, cho dù mưa gió, nắng nôi, lúc nào cũng như lúc nào, bà vẫn miệt mài buôn bán. Đó là hoàn cảnh thời gian. Còn hoàn cảnh không gian, còn chỗ làm ăn? Đó là mom sông. Mom sông theo giáo sư Lê Trí Viễn là một địa thế thừa của đất liền ba bề là nước, đổ ùm xuống sông lúc nào không biết chừng (Lê Trí Viễn – Những bài giảng văn ở Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1982). Bà Tú đã phải ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, buôn bán làm ăn ở cái mom sông chênh vênh không vững vàng gì ấy.
Gánh nặng của người phụ nữ
Vì sao bà phải vất vả đến như vậy? Câu thơ thứ hai đã trả lời rõ: Nuôi đủ năm con với một chồng. Nhà thơ đã nâng cao vợ mình lên hàng trụ cột của gia đình. Cả một gánh nặng sinh kế đã đặt lên vai người phụ nữ.
Vai trò của người vợ và sự hy sinh của bà Tú
Bà Tú đã hy sinh suốt cả năm để nuôi đủ năm con và chồng, đảm đang và vất vả. Ông ta cũng đã tự hạ mình xuống thành ngang hàng với lũ con để trở thành thứ sáu.
Sự vất vả của bà Tú
Bà Tú đã miêu tả sự cô đơn và vất vả của mình bằng cách dùng hình ảnh con cò lặn lội trong ca dao:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Bà Tú đã đồng nhất trực tiếp thân cò với thân phận người vợ để tảo tần sự cặm cụi của mình.
Tình thương của nhà thơ đối với bà Tú
Nhà thơ đã thể hiện tình thương đối với bà Tú bằng cách miêu tả sự vất vả và gian nan của bà:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Nhà thơ cũng cho thấy sự biết ơn và tự hào của mình đối với bà Tú, nhưng cũng có chút hối hận và ăn năn vì bản thân đã là gánh nặng của vợ.
Ý nghĩa của câu thừa đề trong bài thơ
Giải thích nỗi khó khăn của bà Tú
Đến câu thừa đề, lại là ý giải thích cho những cái vất vả khó nhọc mà một tay bà Tú phải cáng đáng, ấy là bởi nỗi phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Cả gia đình đều trông cậy vào việc bà Tú buôn bán, bà phải gánh trên vai hai gánh nặng, một bên là 5 đứa con thơ dại, một bên là ông chồng, mà ông chồng này là gánh nặng đặc biệt, có một người thôi nhưng chẳng khác nào nuôi thêm 5 đứa con nữa.
Tình cảm của nhà thơ
Viết như vậy, Tú Xương đang có hàm ý mỉa mai, trào phúng chính bản thân mình, mỉa mai bởi bản thân ông vốn là đàn ông sức dài vai rộng thế mà lại không biết san sẻ, đỡ đần cùng vợ nuôi 5 đứa con. Mà đằng này ông lại chẳng khác nào mấy đứa con ngày ngày ăn bám, dựa vào từng đồng tiền khó nhọc vợ kiếm được để sống cuộc đời cay đắng và bất mãn.
Tủi nhục và hổ thẹn của nhà thơ
Từ hai câu thơ trên ta thấy được cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở nỗi lòng thương vợ sâu sắc mà còn là nỗi tủi nhục, hổ thẹn với vợ và với chính bản thân mình vì sự vô năng bất lực trước cuộc đời, thấy xót xa cho cuộc đời khoa cử vô vọng, không có khả năng đùm bọc vợ con, ngược lại trở thành một gánh nặng để vợ phải một mình gánh gồng tất thảy. Bên cạnh ý giải thích, câu thừa đề này còn bộc lộ thành quả sau bao ngày tháng vất vả của bà Tú.
Khắc họa nỗi vất vả cơ cực của bà Tú trong cuộc đời và hôn nhân
Tú Xương đã vận dụng một cách tài tình các thành ngữ dân gian để khắc họa những nỗi vất vả cơ cực của bà Tú trong cả cuộc đời, trong cuộc hôn nhân với Trần Tế Xương.
Ý nghĩa của thành ngữ “Một duyên hai nợ”
Xuất phát từ thuật ngữ “duyên nợ” của nhà Phật, ông đã sáng tạo bằng cách chêm xen các số từ “một”, “hai”, thể hiện ý nghĩa sâu sắc rằng trong cuộc hôn nhân này, cái duyên thì chỉ có một, nhưng cái nợ thì có tới hai. Và bà Tú thực sự là người chịu nhiều thiệt thòi, bởi duyên ít mà nợ nhiều, hạnh phúc ấm áp chẳng có bao nhiêu, mà cay đắng khổ cực thì nhiều.
Ý nghĩa của thành ngữ “Năm nắng mười mưa”
Bên cạnh thành ngữ “duyên nợ” thì tác giả còn sử dụng thêm thành ngữ “năm nắng mười mưa”, nắng mưa đều là những yếu tố chỉ thời tiết bất lợi, trong bài thơ là ý chỉ sự khắc nghiệt của cuộc đời mà bà Tú phải gánh chịu.
Tú Xương và những đặc điểm văn học trong bài thơ “Chữ người tử tù”
Thể hiện tính cách, tâm hồn của bà Tú
Bên cạnh nghệ thuật dùng thành ngữ, thì Tú Xương còn thể hiện tính cách, tâm hồn của bà Tú trong các vế tiểu đối “âu đành phận”và “dám quản công”, thể hiện sự nhẫn nhịn, cam chịu, không nề hà than thân, trách phận của bà Tú, đồng thời cũng là đặc điểm chung của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến, một lòng thờ chồng, thờ con. Nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú ấy là đức hi sinh và lòng vị tha cao cả, xuất phát từ tấm lòng yêu chồng và thương con tha thiết. Như vậy qua sáu câu thơ đầu, bà Tú đã hiện lên với hai đặc điểm vừa đáng thương lại cũng vừa đáng trọng.
Tình cảm của ông Tú với bà Tú
Thông qua nỗi lòng thương vợ bộc lộ dọc bài thơ thì hình ảnh ông Tú cũng hiện lên một cách thấp thoáng. Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ, và trong bối cảnh xã hội xưa có được một người đàn ông biết yêu thương quý trọng người bạn đời của mình như thế là không nhiều, bởi họ còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất phu đa thê.
Sự tự trách của ông Tú trong bài Thương Vợ
Sự tự trách cũng là xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của ông Tú dành cho người vợ kết tóc của mình trong công cuộc mưu sinh, trong cuộc hôn nhân không mấy mỹ mãn này với ông. Qua bài thơ ta thấy hiện lên hình ảnh của một người phụ nữ vừa đáng thương vừa đáng trọng, đồng thời bộc lộ được rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú với đức hy sinh cao cả, sự đảm đang tháo vát, có lòng vị tha và lòng yêu thương chồng con tha thiết. Bên cạnh đó ta còn thấy được sự yêu thương của ông Tú đối với vợ mình và vẻ đẹp nhân cách của ông qua những lời tự trách, trào phúng.
Thi văn về đề tài vợ của Trần Tế Xương
Trong lịch sử văn học nước ta xưa nay, thơ viết về vợ vốn không nhiều. Do đó, thơ hay nghĩa là viết chân thật, sâu sắc và xúc động về đề tài này lại càng hiếm hoi. Vì vậy có thể xem Trần Tế Xương là một trường hợp đặc biệt. Trong thơ mình, ông nói đến vợ rất nhiều lần. Khi thì lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ. Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ. Đem chuyện trăm năm giở lại bàn. Khi thì Vuốt râu nịnh vợ con bu nó. Lại có lúc Viết vào giấy dán ngay lên cột. Hỏi mẹ mày dốt hay hay. Cao hứng và ngông nghênh hơn, nhà văn đã viết văn tế để tế sống vợ.
Đặc biệt của Trần Tế Xương trong việc viết về vợ
Trần Tế Xương là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam, nhưng đặc biệt là cách ông viết về vợ. Trong thơ của ông, vợ xuất hiện rất nhiều lần và được miêu tả bằng những từ ngữ xúc động và
Thể hiện tình yêu thương qua cách “nuôi đủ”
Điều đó thể hiện thông qua hai từ “nuôi đủ”, không thừa cũng không thiếu, gần giống với câu thành ngữ dân gian “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Có thể thấy rằng bà Tú là một người phụ nữ cực kỳ tảo tần, tháo vát, dù với công việc khó khăn, với hai gánh nặng đè trên đôi vai nhưng một tay bà vẫn cáng đáng đâu vào đó, đảm bảo cho chồng con một cuộc sống đủ đầy. Hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của một trụ cột kinh tế trong gia đình, thậm chí vĩ đại hơn nhiều đấng mày râu khác trong việc đảm bảo đời sống vợ con. Có thể nói rằng đằng sau hai chữ nuôi đủ này ta thấy cả một cái sự biết ơn, trân trọng, ngưỡng mộ mà Tú Xương dành cho người vợ kết tóc của mình.
Hình ảnh bà Tú qua hai câu thực
Hình ảnh bà Tú còn được tiếp tục tái hiện thông qua hai câu thực. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Nghệ thuật nổi bật ở đây là nghệ thuật đảo cấu trúc, nhấn mạnh hai từ “lặn lội” và “eo sèo” khi đặt chúng ở đầu mỗi câu thực, đó cũng là hai động thái mưu sinh của bà Tú.
Tảo tần, tháo vát của bà Tú
Bà Tú là một người phụ nữ cực kỳ tảo tần, tháo vát, dù với công việc khó khăn, với hai gánh nặng đè trên đôi vai nhưng một tay bà vẫn cáng đáng đâu vào đó, đảm bảo cho chồng con một cuộc sống đủ đầy.
Nghệ thuật đảo cấu trúc trong hai câu thực
Hình ảnh bà Tú còn được tiếp tục tái hiện thông qua hai câu thực. Nghệ thuật nổi bật ở đây là nghệ thuật đả
Tình cảm yêu thương của ông Tú
Tình cảm yêu thương của ông Tú được thể hiện gián tiếp qua việc khắc họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi nhận công lao của ông Tú đối vợ “Nuôi đủ năm con với một chồng” theo lối nói hài hước, tếu táo và có chút tự trào.
Tú Xương cũng hiện lên là một người có nhân cách thông qua những lời tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình là cái “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, phải trả ở kiếp này. Sự tự trách ấy còn được thể hiện ở hai câu thơ cuối bài “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”, đó là tiếng chửi ném vào chính mình bởi thấy áy náy và day dứt vì không hoàn thành trách nhiệm của một người đàn ông trong gia đình, sau đó là ném vào xã hội, cái xã hội để cho sự bất công được hiện diện một cách hiển nhiên.
Tiếng chửi và lời tự trách thấp thoáng trong cả bài thơ là xuất phát từ ý thức trách của người chồng, người cha trong gia đình, đồng thời cũng là ý thức về sự bất lực của bản thân khi khi không thể làm gì đỡ đần vợ con, về sự bất đắc chí trong công danh.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%BA_X%C6%B0%C6%A1ng