Giới thiệu
Môn Ngữ văn lớp 12 đòi hỏi kiến thức về các thể thơ khá nhiều. Thơ là một hình thức nghệ thuật đặc biệt, có yếu tố ngôn ngữ và thẩm mỹ. Để học tốt môn này, các em cần nắm rõ đặc điểm từng thể loại để phân biệt được các thể thơ và biết cách phân tích về âm điệu thơ, nhịp thơ khi đề bài yêu cầu.
Các thể thơ thường gặp
Thơ lục bát
Thơ lục bát là thể thơ dân tộc được sử dụng rộng rãi trong văn học Việt Nam. Luật thơ lục bát gồm một cặp hai câu thơ, câu trên sáu chữ (lục), câu dưới tám chữ (bát). Một bài thơ có thể có nhiều cặp lục bát, số lượng cặp câu không hạn định. Về vần, vần ở giữa câu thơ được gọi là vần lưng (eo vần), chữ cuối câu sáu thường bắt vần với chữ thứ sáu câu tám chữ, chữ cuối câu tám chữ bắt vần với chữ cuối câu sáu chữ ở cặp tiếp theo.
Vần luật của thơ lục bát phổ biến như sau:
Các từ số: 1 2 3 4 5 6 7 8
Câu lục 1: + B + T + B
Câu lục 2: + T T + + B
Câu bát 1: + B + T + B + B
Câu bát 2: + T + B + T + B
Ví dụ thơ lục bát: Các bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính), Việt Bắc (Tố Hữu)…
Thơ song thất lục bát
Thơ song thất lục bát là thể thơ dân tộc được sử dụng trong ngâm khúc, truyện Nôm. Luật thơ của thể thơ này gồm khổ thơ song thất lục bát gồm bốn câu: một cặp câu bảy chữ (song thất), hai câu sáu chữ và tám chữ (lục bát). Một bài thơ có thể có nhiều khổ song thất lục bát, số lượng khổ thơ không hạn định. Về v
Thơ ngũ quy
Thơ ngũ quy là thể thơ dựa trên nghi thức tín ngưỡng và tâm linh của người Việt Nam. Thể thơ này thường được sử dụng trong các nghi lễ cúng tế và các dịp lễ hội.
Thơ ngũ quy bao gồm năm câu thơ, mỗi câu có số chữ và vần được quy định cụ thể. Các câu thơ sẽ được đọc theo thứ tự như sau: câu 1, 3, 5 có số chữ là 7 và vần bắt buộc là vần bằng (B), câu 2 và 4 có số chữ là 5 và vần bắt buộc là vần trắc (T).
Cách gieo vần của thơ ngũ quy được thực hiện theo kiểu liền, trong đó vần cuối của câu trước sẽ trùng với vần đầu của câu sau.
Ví dụ:
Trăng rằm thu trên sông nước êm
Cây đổ rụng lá rơi tiếng thềm
Mẹ già trông trẻ đêm khuya thức
Cha xa vắng nhà những giọt thềm
Ai đưa cành đào khoe sắc tím
Xuân đang đến trên mọi nẻo đường
Trong ví dụ trên, vần cuối của câu 1 (êm) trùng với vần đầu của câu 2 (rơi), vần cuối của câu 2 (thềm) trùng với vần đầu của câu 3 (thức), vần cuối của câu 3 (thềm) trùng với vần đầu của câu 4 (giọt), vần cuối của câu 4 (thềm) trùng với vần đầu của câu 5 (khoe), và vần cuối của câu 5 (đường) trùng với vần đầu của câu 1 (êm).
Thơ ngũ quy là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, mang đậm nét văn hóa tâm linh và tín ngưỡng của người Việt. Việc tìm hiểu và sử dụng thể thơ này sẽ giúp cho người Việt có thêm sự hiểu biết về truyền thống văn hóa của đất nước mình.
Thơ thất ngôn tứ
Thơ thất ngôn tứ tuyệt là một dạng thơ truyền thống của Trung Quốc, nổi tiếng với những bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc và chứa đựng nhiều cảm xúc.
- Xuất xứ:
Thơ thất ngôn tứ tuyệt được sáng tác từ thời Tống (960 – 1279) và sau đó phát triển trong thời kỳ Trung Quốc trung đại.
- Luật thơ:
Thơ thất ngôn tứ tuyệt có bảng luật thơ khá nghiêm ngặt về phương diện âm vị và vần điệu. Luật thơ này được gọi là “bảng luật thơ thất ngôn tứ tuyệt”.
Luật trắc vần bằng như sau:
- T – T – B – B – T – T – B (vần)
- B – B – T – T – T – B – B (vần)
- B – B – T – T – B – B – T
- T – T – B – B – T – T – B (vần)
Ví dụ:
Dõi mắt tìm ai tận cuối trời
Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi
Cay cay giọt lệ sầu chan chứa
Mộng ước tình ta đã rã rời
Hoàng Thứ Lang
Luật bằng vần bằng như sau:
- B – B – T – T – T – B – B (vần)
- T – T – B – B – T – T – B (vần)
- T – T – B – B – B – T – T
- B – B – T – T – T – B – B (vần)
Ví dụ:
Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man
Mộng ước tình ta đã lụn tàn
Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích
Mi buồn lệ ứa mãi không tan
Hoàng Thứ Lang
Thơ thất ngôn tứ tuyệt được chia làm bốn câu, gồm Khai, Thừa, Chuyển, Hợp. Mỗi câu có bảy chữ cái, tổng cộng bài thơ có 28 chữ cái. Thể hiện trong từng câu thơ là sự tưởng tượng sâu sắc, cảm xúc tinh tế và bề dày triết lý. Thơ thất ngôn tứ tuyệt còn được đánh giá là một loại thơ rất khó sáng tác, đòi hỏi tài năng và năng lực của các nhà thơ.
Kết luận
Thơ ngũ ngôn bát cú và thơ thất ngôn tứ tuyệt là hai dạng thơ truyền thống phổ biến trong văn học cổ truyền của người Việt Nam. Thơ ngũ ngôn bát cú thường được sử dụng để truyền tải những ý nghĩa sâu sắc về đạo đức và tình cảm, trong khi thơ thất ngôn tứ tuyệt thường được dùng để ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
Việc học tập và thực hành viết thơ ngũ ngôn bát cú và thơ thất ngôn tứ tuyệt không chỉ giúp cho chúng ta trau dồi kỹ năng viết lách mà còn giúp cho tâm hồn ta trở nên tinh tấn hơn, giàu sức sống hơn.
Tuy nhiên, để viết được những bài thơ đẹp và ý nghĩa, ta cần phải có kiến thức vững chắc về văn học, văn chương và những kỹ thuật viết thơ cơ bản. Ngoài ra, cần có tâm hồn tinh tấn và đam mê sáng tác để có thể truyền tải được những tình cảm chân thành và sâu sắc nhất đến với độc giả.
Vì vậy, việc học tập và rèn luyện kỹ năng viết thơ là cần thiết và mang lại nhiều giá trị cho cuộc sống của chúng ta.
Thơ thất ngôn bát cú
Xuất xứ Trung Quốc
Thơ thất ngôn bát cú là một loại thơ trung đại và cận đại có xuất xứ từ Trung Quốc. Mỗi dòng thơ có 7 tiếng, mỗi bài thơ có 8 câu và được chia thành 4 đoạn lần lượt gọi là đề, thực, luận và kết. Luật bằng vần bằng được áp dụng trong việc viết thơ thất ngôn bát cú với các mẫu vần được sắp xếp theo thứ tự nhất định.
Luật bằng vần bằng
Luật bằng vần bằng trong thơ thất ngôn bát cú bao gồm 8 câu vần được sắp xếp như sau:
B – B – T – T – T – B – B (vần)
T – T – B – B – T – T – B (vần)
T – T – B – B – B – T – T (đối câu 4)
B – B – T – T – T – B – B (vần) (đối câu 3)
B – B – T – T – B – B – T (đối câu 6)
T – T – B – B – T – T- B (vần) (đối câu 5)
T – T – B – B – B – T – T
B – B – T – T – T – B – B (vần)
Ví dụ về một bài thơ thất ngôn bát cú có thể kể đến là bài thơ “Trung Thu” của Hoàng Thứ Lang.
Luật trắc vần bằng
Ngoài luật bằng vần bằng, trong thơ thất ngôn bát cú còn áp dụng luật trắc vần bằng với các mẫu vần được sắp xếp theo thứ tự như sau:
T – T – B – B – T – T – B (vần)
B – B – T – T – T – B – B (vần)
B – B – T – T – B – B – T (đối câu 4)
T – T – B – B – T – T – B (vần) (đối câu 3)
T – T – B – B – B – T – T (đối câu 6)
B – B – T – T – T – B – B (vần) (đối câu 5)
B – B – T – T – B – B –
Các thể thơ hiện đại
Trong văn học Việt Nam hiện đại, các thể thơ có ảnh hưởng chủ yếu từ văn học phương Tây, đặc biệt là Pháp. Các thể thơ hiện đại được chia thành nhiều loại khác nhau với số tiếng và số câu trong mỗi câu thơ không quy định nghiêm ngặt.
Thơ 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng
Các thể thơ hiện đại được chia thành nhiều loại khác nhau với số tiếng và số câu trong mỗi câu thơ không quy định nghiêm ngặt. Thường gặp nhất là các thể thơ có khổ 4 câu hoặc thành hẳn đoạn thơ dài.
Thơ tự do
Thơ tự do là loại thơ không quy định nghiêm ngặt về số tiếng và số câu trong mỗi câu thơ. Tác giả hoàn toàn được quyền quyết định về số câu, số chữ trong tác phẩm của mình. Tuy nhiên, thơ tự do vẫn có một số quy tắc về cách thức xây dựng thơ để truyền đạt thông điệp và cảm xúc một cách hiệu quả.
Luật vần trong thơ hiện đại
Không quy định cụ thể về luật vần trong thơ hiện đại, nhưng các tác giả thường áp dụng vần chân (gieo vần cuối câu) và các cách gieo vần phổ biến như vần chéo, vần tiếp, vần ôm, vần ba tiếng,…
Ví dụ về một số cách gieo vần trong thơ hiện đại:
- Vần tiếp: hai câu liền nhau hiệp vần với nhau và cứ một vần bằng thì chuyển một vần trắc
- Vần chéo: hai câu cách nhau hiệp vần với nhau
- Vần ôm: khổ 4 câu thì câu 1 hiệp với câu 4, câu 2 hiệp với câu 3
- Vần ba tiếng: khổ 4 câu thì câu 1, 2, 4 hiệp vần với nhau
Việc áp dụng các luật vần trong thơ giúp tăng tính thẩm mỹ, giúp cho thơ trởnên cảm xúc hơn và dễ đọc hơn. Ngoài những luật vần truyền thống như vần tiếp, vần chéo, vần ôm và vần ba tiếng, trong thơ hiện đại còn có nhiều cách gieo vần khác nhau để tạo nên sự độc đáo và sáng tạo trong thơ.
Ví dụ, trong thơ của nhà thơ Nguyễn Du, ông đã sử dụng phương pháp gieo vần kiệt để tạo ra một cảm giác chặt chẽ và uyển chuyển trong thơ. Phương pháp này dựa trên việc lựa chọn các từ có vần kiệt (tức là vần chỉ bao gồm âm cuối cùng của từ) để ghép thành những cặp từ hiệp vần.
Ngoài ra, trong thơ hiện đại còn có nhiều phương pháp gieo vần khác như vần đôi, vần đôi lặp lại, vần ba, vần ba lặp lại, vần bốn, vần bốn lặp lại, v.v. Mỗi phương pháp này đều mang lại một cảm giác khác nhau cho thơ, tùy thuộc vào sự sáng tạo và sử dụng khéo léo của nhà thơ.
Tuy nhiên, việc sử dụng các luật vần trong thơ không phải là điều bắt buộc và quan trọng hơn là sự tinh tế trong lựa chọn từ vựng, cách sắp xếp cú pháp và sự truyền tải cảm xúc của nhà thơ. Các luật vần chỉ là một công cụ hỗ trợ giúp cho thơ trở nên đẹp hơn và dễ đọc hơn.
Tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%A1