Phân tích đề
Đề bài yêu cầu phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn.
Hệ thống luận điểm
Để phân tích đoạn trích này, ta có thể sử dụng hệ thống luận điểm sau:
- Mở bài phân tích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”: giới thiệu chung về đoạn trích và tác giả
- Thân bài phân tích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”: phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, tập trung vào những chi tiết quan trọng nhất
- Kết bài phân tích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”: tổng kết lại ý nghĩa của đoạn trích
Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phục
Phạm vi tư liệu, dẫn chứng:
Từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Phương pháp lập luận chính:
Phân tích.
Hệ thống luận điểm
Luận điểm 1: Tình cảnh cô đơn, lẻ loi, nỗi buồn tủi của người chinh phụ (16 câu đầu)
- Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị
- Ngày đêm thao thức ngóng trông tin chồng
- Cảm nhận khác thường về ngoại cảnh và thời gian
- Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày
Luận điểm 2: Nỗi nhớ chồng nơi chiến trận của người chinh phụ (8 câu còn lại)
- Ước muốn của người chinh phụ
- Nỗi nhớ của người chinh phụ
- Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh
Lập dàn ý chi tiết phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Mở bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- Vài nét về tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm
- Đặng Trần Côn là một danh nhân văn hóa có cống hiến to lớn đối với nền văn học Việt Nam trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm chữ Hán Chinh phụ ngâm.
- Đoàn Thị Điểm (1705 – 1749) là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng, bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất.
Vị trí:
Từ câu 193 đến câu 220 của tác phẩm Chinh phụ ngâm.
Nội dung:
Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong thời gian chồng đi chinh chiến, tiếng nói oán trách chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đòi quyền sống, hạnh phúc lứa đôi. Thân bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.
“Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ đi đi lại lại trên hiên vắng.
“Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng buông rèm rồi lại cuốn rèm lên không biết bao nhiêu lần.
-> Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, vô nghĩa thể hiện tâm trạng thẫn thờ, chồng chất ưu tư, trĩu nặng u buồn, không biết san sẻ cùng ai của người chinh phụ.
“Dạo hiên vắng”:
Tâm thế của một con người đang âm thầm chịu đựng sự lẻ loi, cô đơn.
“Ngồi rèm thưa”:
Trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy. -> Chữ “vắng, thưa” không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người chinh phụ.
Thao thức ngóng trông tin chồng
Ban ngày:
Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành. Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
Ban đêm:
Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san sẻ nỗi lòng cùng nàng. Thực tế: “Đèn chẳng biết”, “lòng thiếp riêng bi thiết”. Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ. So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.
Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”
“Hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ còn hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.
Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:
Khắc sâu nỗi cô đơn của người phụ nữ
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
- Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.
- Những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả.
- Cảnh vật và sự sống bên ngoài đều nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, bất định không dễ nắm bắt.
Cảm nhận về thời gian
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
- Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.
- Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.
- Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm tạo âm hưởng buồn thương, ngân nga như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng.
- Mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.
Tác phẩm “Từ điển khổ” của Nguyễn Du
Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh và thời gian
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
- Hình ảnh đồng bộ của cảnh vật và sự sống bên ngoài: gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả
- Từ láy “eo óc, phất phơ”: tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật
- So sánh “Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”: thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt
Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày
- Hình ảnh “gượng đốt hương”: miễn cưỡng đốt hương tìm sự thanh thản nhưng lòng dạ lại mê man, không tập trung
- Hình ảnh “gượng soi gương”: chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt
- Hình ảnh “gượng gảy đàn”: sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở
- Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm
Nỗi nhớ chồng nơi chiến trận của người chinh phụ
“Gió bấc nào mang đến tin
Cánh chim trời cũng hoang mang vô vàn”
- Hình ảnh “gió bấc”: tượng trưng cho sự khó khăn, gian khổ của chiến tranh
- Hình ảnh “cánh chim trời”: thể hiện sự lo lắng, bất an của người chinh phụ
“Giữa nơi chiến sự chông gai
Lòng vợ chồng tưởng như dài một trời”
Phân tích đoạn trích “Thăm thẳm đường lên bằng trời”
1. Hình ảnh “Thăm thẳm” và “Đau đáu”
“Thăm thẳm”: độ dài của thời gian, độ rộng của không gian, độ sâu của nỗi nhớ vô tận, vô cùng. Hình ảnh ước lệ gợi lên sự xa cách muôn trùng giữa người chinh phu và người chinh phụ. Nỗi nhớ tràn ra cả không gian và thời gian rộng lớn.
“Đau đáu”: khát khao, nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu. Tình và cảnh thẩm thấu lẫn nhau, nỗi lòng thương nhớ nặng nề. Nỗi lòng đã hoàn toàn phơi ra ngoài cảnh vật.
2. Hình ảnh “Cành cây sương đượm” và “Tiếng trùng mưa phun”
“Cành cây sương đượm”: sự buốt giá trong tâm hồn người.
“Tiếng trùng mưa phun”: khao khát sự đồng cảm nhưng vô vọng, sầu nhớ thèm da diết. Khi “tiếng trùng mưa phun“ rung lên ta không còn nghe tiếng của ”lòng này” nữa mà là tâm trạng của người chinh phụ đã lẩn khuất trong hình ảnh, âm điệu của tự nhiên, âm thanh của tiếng trùng hay cũng chính là âm thanh của một cõi lòng tan nát.
3. Kết bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Khi chồng đi đánh trận, người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ với những cung bậc và sắc thái khác nhau trong thời gian dài. Những hành động gượng gạo không giúp chinh phụ tìm được sự giải tỏa, sẻ chia nỗi lòng nên nỗi cô đơn, sầu nhớ càng thêm chồng chất.
Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
Đoạn trích “Thăm thẳm đường lên bằng trời” gợi lên hình ảnh của sự cô đơn và nỗi nhớ vô tận của ng
Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm
Nội dung
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn phản ánh tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong xã hội phong kiến xưa. Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ diễn tả nỗi nhớ, đau đớn của người phụ nữ khi chồng phải ra chiến trận.
Nghệ thuật
Trong tác phẩm, tác giả sử dụng giọng thơ trầm buồn, khắc khoải để thể hiện tâm trạng của nhân vật. Bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tinh tế, sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ, từ láy, ẩn dụ, điệp liên hoàn. Tác giả cũng sử dụng bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình và chọn lọc ngôn từ.
Ý nghĩa
Tác phẩm phản ánh tình cảnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi mà họ phải sống cô độc và buồn khổ khi chồng ra chiến trận. Tác phẩm cũng phê phán chiến tranh phi nghĩa.
Sơ đồ tư duy phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Tác giả: Đặng Trần Côn
Nhân vật: người chinh phụ
Nội dung: tình cảnh lẻ loi, đau đớn, nỗi nhớ khi chồng phải ra chiến trận
Nghệ thuật: giọng thơ trầm buồn, miêu tả nội tâm nhân vật, biện pháp tu từ, bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình, ngôn từ chọn lọc
Một số bài văn mẫu tham khảo phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Có thể tham khảo các bài văn phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ như “Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ bài số 1: Tiếng lòng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chi
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
Phân tích tâm trạng của người chinh phụ khi phải xa chồng
Trong thời kỳ phong kiến, triều đình thường phải cất quân ra trận, khiến nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. Cùng với đó, có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. Tác giả Đặng Trần Côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ.
Trích đoạn được trích từ câu 193 đến câu 216 diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó được thể hiện qua rất nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm khác nhau. Trước hết tâm trạng bồn chồn lo lắng, nhớ thương của nhân vật được thể hiện trong các hành động lặp đi lặp lại nhiều lần: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước”. Bước chân chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của người chinh phụ.
Bước chân này khác với bước chân của nàng Kiều khi tìm đến tình yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Người chinh phụ hết đứng lên lại ngồi xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng cho sinh mệnh của chồng ở nơi chiến trường đầy nguy hiểm.
Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản
Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng hồn đã mê mải, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nỗi phiền muộn.
Tìm kiếm sự vui vẻ qua việc chỉnh trang nhan sắc
Nàng lấy gương soi, để tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải đối mặt với sự cô đơn, lẻ loi, hơn nữa nàng lại nhận ra sự tàn phai của tuổi thanh xuân.
Đau khổ và cô đơn ngày càng ngập đầy hơn
Khiến nước mắt ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ lại càng ngập đầy hơn, nàng thấm thía nỗi cô đơn, tuổi thanh xuân tàn phai trong cô đơn sầu muộn.
Nỗi cô đơn trong các biểu tượng đôi lứa
Nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ:
- Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận.
- Dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp.
- Phím đàn loan phượng: biểu tượng của lứa đôi gắn bó.
Tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình cô đơn, lẻ bóng. Thậm chí nỗi cô đơn đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị đứt, phím đàn bị chùng, đó là những biểu hiện không may mắn của đôi lứa. Nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng lại không chạy trốn được nỗi cô đơn.
Thương nhớ chàng xa xôi
Thôi thì lòng thương quý chàng xin được gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, bởi vì:
“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.”
Đời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / Năm vùng cát tráng ngủ cồn rêu xanh”, chưa kể đời chiến binh mấy người đi trở lại. Tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. Nhưng:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng, cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Dù là “Trời” thì Trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Các từ láy “thăm thẳm, đau đáu” càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, không thấy được của Trời, và chỉ có người trong cuộc (người chinh phụ) mới cảm nhận rõ lòng mình. Cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng não ruột. Còn tình thì da diết thiết tha. Thể thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn trích, bản dịch lại dùng phép so sánh, từ lặp và từ láy một cách tự nhiên càng làm tăng thêm giá trị nội dung.
Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ bài số 3:
Chinh phụ ngâm: Thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm văn học của tác giả Đặng Trần Côn, được sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì xã hội phong kiến đang rối ren. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thể hiện sự khát khao tình yêu của người chinh phụ, nhưng nếu nhìn sâu hơn, ta có thể thấy rằng đây cũng là bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình yêu, ngăn cách hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Điều này có thể là nguyên nhân tác động đến việc tác phẩm được độc giả cùng thời tán thưởng nhiều như vậy. Nhiều người đã dịch Chinh phụ ngâm sang thơ Nôm để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. Hiện nay, bản dịch Nôm là bản dịch thành công nhất.
Chiến tranh xảy ra liên miên trong phong kiến phi nghĩa
Trong thời kì xã hội phong kiến rối ren, chiến tranh xảy ra liên miên, từ Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li, nấu da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng.
Văn học thời kì này và tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
Phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân
Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm này sang chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là hoàn hảo hơn cả bởi nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa và đề cao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi
Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn chồng mình sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng phải sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thía nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng trở nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy.
Tâm trạng bất an và hành động thể hiện
Tâm trạng bất an của người chinh phụ trong tác phẩm được thể hiện thông qua hành động vô thức của nàng. Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen, nàng hết buông rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động mà trong vô thức thực hiện hành động để vơi bớt nỗi âu lo.
Hành động ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc cũng thể hiện nỗi bồn chồn, nhớ mong và thao thức của người chinh phụ đối với chồng.
Sử dụng ngọn đèn để thể hiện nỗi nhớ thương
Trong văn học, ngọn đèn thường được sử dụng để nói về nỗi nhớ mong, thao thức, như trong bài ca dao “Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt” hay trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Trong tác phẩm người chinh phụ, cây đèn trở thành người bạn đồng hành của nàng trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, và cũng là cách thể hiện nỗi nhớ thương của nàng.
Tuy nhiên, người chinh phụ đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết” do vô tri vô giác của đối tượng này.
Tìm quên và đối diện với bi kịch
Chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến những thú vui nhưng càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng đau khổ hơn bao giờ hết. Nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa nàng và chồng. Non Yên – nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi, khoảng cách xa vời khôn thấu. Nàng tìm cách để vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung cho chồng bằng ngọn gió đông, nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể thực hiện. Nàng lại phải đối mặt với thực tại, thấm thía với bi kịch của mình: cảnh xung quanh hiện hữu trước mắt, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm. Cảnh tượng thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ, nàng sống trong đau đớn, nhớ thương.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. Tâm lí người chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại cảnh. Thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Qua trích đoạn, Đặng Trần Côn đã diển tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nỗi cô đơn, buồn thương.
Diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi
Đặng Trần Côn trong tác phẩm Chinh phụ ngâm đã diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đó là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Tác giả đã tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.
Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ bài số 2
- Tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn Đặng Trần Côn trong Chinh phụ ngâm đã miêu tả tình cảm và tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn, đau khổ trong cuộc đời. Tình trạng này được tác giả đặc biệt nhấn mạnh và thể hiện rõ trong từng câu thơ của tác phẩm.
Thông tin về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm
Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất) là người làng Nhân Mục, tên nôm là làng Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Ngoài tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của ông gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Miêu tả tình cảnh lẻ loi
“Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình, Hoa đèn kia dẫu sao còn lửa. Riêng lòng này với bóng lạnh lùng. Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Đây là miêu tả tình cảnh lẻ loi, đơn chiếc của người chinh phụ. Ngày đợi chờ khắc khoải, đêm dài câm lặng. Lòng cô đơn, tương tư của người chinh phụ được miêu tả bằng hai câu thơ sử dụng nghệ thuật so sánh. Thời gian chờ đợi càng dài, nỗi sầu càng lớn tựa miền biển xa.
Tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ
“Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”
Đây là lời tâm sự của người chinh phụ gửi đến chồng ở miền xa, thể hiện nỗi nhớ thương tha thiết. Bốn câu thơ sử dụng hình ảnh gửi lời nhớ thương theo gió đông và đưa ra câu hỏi liệu lời tâm sự có được truyền đến chồng đang ở nơi nào ngoài mặt trận.
Diễn tả nỗi cô đơn trong Hoa đèn
Hình ảnh Hoa đèn
Để nhấn mạnh hơn nữa vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh Hoa đèn kia với bóng người khá thương, hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao, bấc hỏng. Chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong nhớ về chồng.
Các chi tiết trong hình ảnh Hoa đèn
Các chi tiết trong hình ảnh Hoa đèn càng thể hiện rõ hơn nỗi cô đơn của người chinh phụ:
- Không gian bên ngoài làm cho nỗi cô đơn của người chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn.
- Tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lương, khắc khoải.
- Từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng ngao ngán của người chinh phụ.
Mối sầu trải dài mênh mông
Người chinh phụ cảm nhận thấm thía nỗi cô đơn hơn bao giờ hết. Cách đo đếm thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được Nguyễn Du nói đến:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. Dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông. Nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cô đơn.
Tình cảm và tâm trạng người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm
Người dịch và tác giả bản dịch
Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã được dịch ra chữ Nôm, tuy nhiên vẫn chưa rõ ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có người cho rằng bản dịch này là của Đoàn Thị Điểm, trong khi lại có người cho rằng Phan Huy Ích chính là dịch giả của tác phẩm.
Mô tả tình cảm và tâm trạng người chinh phụ
Đoạn trích dưới đây miêu tả về tình cảm và tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi trong thời gian dài khi người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về. Kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió”, người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ:
- Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
- Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
- Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
- Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn, càng làm đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước” dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya.
Nguồn Tham Khảo Bài Viết: Chinh phụ ngâm