Bình Ngô Đại Cáo là bài thơ lớn của nhà văn, nhà ngoại giao và nhà thơ Nguyễn Trãi, được viết vào năm 1428, trong giai đoạn kháng chiến chống lại quân Minh xâm lược nước ta. Bài thơ bao gồm 3 phần, với tổng cộng 3.254 câu thơ. Phần đầu tiên kêu gọi sự đoàn kết của toàn dân trong cuộc chiến chống quân Minh, với lời nhắn nhủ rằng nếu chúng ta không đoàn kết, chúng ta sẽ bị chia rẽ và đánh bại.
Phân tích đoạn 1 bài thơ Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
Dàn ý chi tiết
I. Tổng quan về đoạn thơ
- Đoạn thơ bao gồm 12 câu thơ đầu tiên của bài thơ Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
- Tập trung vào việc khẳng định tư tưởng của tác giả về chủ nghĩa độc lập, yêu nước, tôn trọng nhân quyền.
II. Phân tích từng câu thơ
- Câu 1: Nhấn mạnh ý nghĩa của việc giữ gìn đạo đức nhân nghĩa.
- Câu 2: Kêu gọi quân sự giữ vững trật tự, bảo vệ dân lành.
- Câu 3: Giới thiệu về sự độc lập của nền văn hiến của Đại Việt.
- Câu 4-5: Miêu tả về đặc điểm địa lý của nước ta.
- Câu 6-7: So sánh phong tục tập quán của Bắc và Nam.
- Câu 8-9: Nhắc đến các triều đại đã đóng góp cho sự độc lập của Đại Việt và sự khác biệt văn hóa của các quốc gia phương Tây.
- Câu 10-11: Nhấn mạnh tinh thần hào kiệt của dân tộc Việt Nam và những trường hợp vi phạm đạo đức đã bị xử lý.
- Câu 12: Khẳng định tính chân thật của các sự kiện lịch sử đã diễn ra.
III. Tác dụng của đoạn thơ
- Thể hiện sự tự hào về đất nước và dân tộc Việt Nam.
- Khích lệ tinh thần yêu nước, tôn trọng đạo đức nhân quyền.
- Góp phần xây dựng tình yêu quê hương trong lòng các thế hệ trẻ.
Dàn ý Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1 chi tiết
1. Mở bài
- – Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- – Dẫn dắt và nêu vấn đề: nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
2. Thân bài: Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
- * Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa. – “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
Nhân nghĩa trong tư tưởng Nguyễn Trãi
Nhân: người, tình người (theo Khổng Tử)
Nghĩa: việc làm chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
Trong quan niệm của Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” được kế thừa từ tư tưởng Nho giáo về “yên dân” – mục đích là để đem lại sự yên ổn và hạnh phúc cho cuộc sống của nhân dân. Nội dung cụ thể mới của “nhân nghĩa” là “trừ bạo” – vì nhân dân cần diệt trừ bạo tàn và giặc xâm lược. Tư tưởng này đã được áp dụng vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trong đó mục đích chính là vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
Lời tuyên ngôn độc lập của Nguyễn Trãi
Xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt
Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các chứng chứng thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Cương vực lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có
Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt. Bằng cách liệt kê các chứng cứ hùng hồn, Nguyễn Trãi thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập và tự do, đó là chân lí không thể chối cãi.
Nhân nghĩa và sự hi sinh trong Nho giáo
Trong văn bản, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo khắc họa những giá trị đạo đức vốn có từ xưa của dân tộc Việt Nam, đó là nhân nghĩa và sự hi sinh. Nhân nghĩa đã được Nho giáo khuyến khích, đây là sự đùm bọc, tình cảm giữa con người với nhau. Tác giả đã sử dụng phép so sánh để ví von về sự thiếu nhân nghĩa của quân Nguyên, đồng thời cũng khẳng định rằng dân tộc Việt Nam sẽ bảo vệ nhân nghĩa đến cùng.
Bình Ngô Đại Cáo – Tuyên ngôn độc lập của dân tộc
Bình Ngô Đại Cáo được coi là một tuyên ngôn độc lập đanh thép và hùng hồn của dân tộc. Trong đoạn 1, tác giả đã rõ ràng tuyên bố sự khác biệt giữa địa vị độc lập của nước ta với vị trí bị chiếm đóng của các nước xâm lược. Tác giả cũng bày tỏ sự tự hào và lòng yêu nước của người Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đồng thời cảnh báo những kẻ xâm lược rằng họ sẽ phải trả giá đắt.
Phong cách viết của Nguyễn Trãi
Tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo có phong cách viết đanh thép, hùng hồn, sử dụng ngôn ngữ đanh thép, giọng điệu hào hùng và mạnh mẽ. Tác giả còn sử dụng các biện pháp như liệt kê, so sánh, câu văn song hành để tăng tính thuyết phục, giúp người đọc dễ dàng tiếp thu và hiểu rõ hơn về nội dung tác phẩm.
Tư tưởng Nhân Nghĩa trong Tác Phẩm của Nguyễn Trãi
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của Nguyễn Trãi. Nó là mục tiêu chiến đấu vô cùng thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Việc Nhân Nghĩa Cốt Ở Yên Dân
Mở đầu bài cáo, tác giả đã đưa ra khẳng định đanh thép: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Yên dân là giúp dân có cuộc sống ấm no, đất nước ổn định. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yêu bao đời. Việc nhân nghĩa tiếp theo phải nói đến chính là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột.
Tư Tưởng Nhân Nghĩa và Chiến Đấu Chống Lại Kẻ Thù
Quan tâm đến sự bình yên, no ấm cũng đồng nghĩa với việc chiến đấu chống lại kẻ thù. Có thể nói tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mở ra một lý tưởng xã hội to lớn.
Tư Tưởng Nhân Nghĩa Xuyên Suốt Tác Phẩm của Nguyễn Trãi
Xuyên suốt “Bình Ngô đại cáo” và nhiều tác phẩm lớn của Nguyễn Trãi đều đậm tính “nhân nghĩa”. Đây là sợi dây xuyên suốt, là trăn trở lớn nhất trong việc trị quốc theo quan điểm của ông. Đó là sự yêu thương con dân, rộng ra là yêu thương nhân loại, không phân biệt ta hay địch.
Tư Tưởng Nhân Nghĩa Là Triết Lý Sống Cao Thượng
Sâu xa hơn, “nhân nghĩa” còn là triết lý sống cao thượng, coi trọng chính nghĩa. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, quan điểm này của ông bị ảnh hưởng bở
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1 – Mẫu 3
Trong bối cảnh bấy giờ, đó là tư tưởng vô cùng tiến bộ và mới mẻ của ông. Hậu quả đối với bọn xâm lược được Nguyễn Trãi dẫn chứng vô cùng đanh thép. Đó là các chiến công hiển hách, lừng lẫy đã được ghi chép trong sử sách nước ta:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong. Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Tất cả những thất bại ê chề ấy của ngoại xâm đều là do chúng tự chuốc lấy. Bởi chúng đã xâm phạm vào chủ quyền, ranh giới thiêng liêng nhất của dân tộc ta. Những câu thơ đanh thép ấy cũng là lời cảnh báo hùng hồn cho những âm mưu xâm lược. Bất cứ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ gánh chịu thất bại nặng nề. “Bình Ngô đại cáo” là áng hùng thi được ví như “tuyên ngôn độc lập” thứ 2 của đất nước. Đoạn mở đầu của tác phẩm như một khúc “dạo đầu” đầy hào sảng về chủ quyền Tổ quốc. Để tiếp nối cho những câu thơ đanh thép hơn ở các đoạn sau.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 1 – Mẫu 4
Nhà văn chính luận kiệt xuất: Nguyễn Trãi
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: “Quân trung từ mệnh tập”, các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, “nhân nghĩa” cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” là “yên dân”, “trừ bạo”, cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người
Đại cáo bình Ngô – một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại
Đại cáo bình Ngô được viết bởi Nguyễn Trãi, một danh tác gia vĩ đại trong lịch sử văn chương nước ta. Bản tuyên ngôn này được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” sau Thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Nó được viết để báo cáo rộng rãi cho toàn dân biết về cuộc kháng chiến của quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi để đánh bại quân Minh xâm lược.
Giá trị nghệ thuật của Đại cáo bình Ngô
Với nghệ thuật chinh luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược và đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Bản thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt. Vì vậy, Đại cáo bình Ngô được xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước ta.
Ý nghĩa của cách gọi “giặc Ngô” trong Đại cáo bình Ngô
Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình. Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ.
Đạo lí nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà ông rất coi trọng:
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần: Những hào kiệt gây nền độc lập Đại Việt
Giới thiệu về Đại Việt
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư – Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tổn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia cỏ phủ quyển độc lập, tự do.
So sánh bài Thơ Thần và Đại cáo binh Ngô
So với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm vể quốc gia và dân tộc. Lí Thưởng Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chù quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nển văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập.
Đại Việt và tư tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo”
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Tư tưởng nhân nghĩa
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thương dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”. “Đem đại nghĩa để tháng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Tư tưởng nhân nghĩa trong văn hiến lâu đời của Đại Việt
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân ngh
Khẳng định chủ quyền của đất nước Đại Việt
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
Nền văn hiến đã có từ lâu đời
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc.
Phân chia lãnh thổ, núi sông và phong tập tập quán đặc trưng
Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông.
Triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc
Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt
Tác giả đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
- Lưu Cung tham công nên thất bại,
- Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
- Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
“Bình Ngô đại cáo” và cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt. Ông đã đưa ra những tầm nhìn, những khái niệm về đất nước, nhân dân và sức mạnh Đại Việt, qua đó khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Nước Đại Việt và những yếu tố hình thành tầm vóc lịch sử
Nước Đại Việt có nền văn hiến đã lâu, lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, thuần phong mĩ tục, nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng để một phương”, cùng nhân tài hào kiệt. Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
Văn bản phê phán cuộc xâm lược của quân Minh vào nước ta
Tư tưởng nhân nghĩa trong bài phê phán
Các sự kiện lịch sử về cuộc xâm lược của quân Minh vào nước ta được lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Tác giả trong bài phê phán này thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa khi so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc, và liệt kê những tội ác mà quân Minh đã gây ra với nhân dân ta.
Cuộc xâm lược của quân Minh vào nước ta
Quân Minh đã lợi dụng “chính sự phiền hà” của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Những tội ác của quân Minh
Không sao kể hết bởi lẽ:
- Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
- Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha, ai bảo thần nhân chịu được? Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình. Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng “Gây binh kết oán trải hai mươi năm”.
Chính sách cai trị tàn bạo của quân Minh đối với dân ta
Áp bức và bóc lột
Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Hủy hoại môi trường sống
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
- Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
- Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
- Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
- Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Cai trị tàn bạo và hành động hung hãn
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen “xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “vào núi đãi cát tìm vàng”, bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh_Ng%C3%B4_%C4%91%E1%BA%A1i_c%C3%A1o