Các Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất
Nhân dân ta sử dụng rất nhiều Tục ngữ trong giao tiếp và công việc để làm cho lời nói thêm sinh động và sâu sắc. Sau đây là một số câu Tục ngữ về thiên nhiên và kinh nghiệm sản xuất:
Các Tục ngữ về thiên nhiên
“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, Ngày tháng mười chưa cười đã tối.”
Câu Tục ngữ này miêu tả đặc tính của một số tháng trong năm. Nó nhắc nhở chúng ta rằng thời gian rất nhanh chóng trôi qua, và rằng chúng ta cần phải tận dụng mọi cơ hội để làm việc và hưởng thụ cuộc sống.
“Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.”
Điều này miêu tả tính chất không thể dự đoán của thời tiết và cuộc sống. Nó cho thấy rằng chúng ta cần phải sẵn sàng đối mặt với bất kỳ tình huống nào trong cuộc sống.
Các Tục ngữ về lao động sản xuất
“Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.”
Câu Tục ngữ này khuyên chúng ta cần phải cẩn thận trong việc bảo vệ và quản lý tài sản của mình. Nó cho thấy rằng chúng ta cần phải đầu tư và chăm sóc cho những gì mình có, để nó có thể phát triển và mang lại lợi ích trong tương lai.
“Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt.”
Đây là một câu Tục ngữ nói về tình trạng thiên tai và lũ lụt trong tháng bảy. Nó cho thấy rằng chúng ta cần phải đề phòng và sẵn sàng đối mặt với những rủi ro trong sản xuất và cuộc sống.
Giải đáp tóm tắt các câu tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất lớp 7
Đây chỉ là một số câu được lựa chọn từ kho tàng tục ngữ vô tận. Qua những câu tục ngữ này, chúng ta bước đầu làm quen với kinh nghiệm phong phú, đồng thời học cách nói ngắn gọn, có vần có điệu, dễ nhớ, dễ thuộc của người xưa.
Tám câu tục ngữ nêu trên thuộc hai nhóm với hai nội dung có quen hệ chặt chẽ với nhau. Các hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, bão, lụt… chi phối trực tiếp đến việc trồng trọt, chăn nuôi của nhà nông. Bốn câu đầu nói về thiên nhiên, bốn câu sau nói về lao động sản xuất.
Các câu tục ngữ về thiên nhiên
- Câu tục ngữ 1: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, Ngày tháng mười chưa cười đã tối.” Nghĩa đen của câu tục ngữ này là: tháng năm (Âm lịch), thì đêm ngắn, ngày dài, tháng mười thì đêm dài, ngày ngắn. Cách nói cường điệu có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ấy: chưa nằm đã sáng, chưa cười đã tối. Phép đối xứng giữa hai vế câu làm nổi bật sự trái ngược trong tính chất của đêm mùa hạ và ngày mùa đông. Có thể vận dụng nội dung của câu tục ngữ này vào chuyện tính toán, sắp xếp công việc hoặc giữ gìn sức khỏe trong mùa hè và mùa đông.
- Câu tục ngữ 2: “Mưa lớn rửa sạch nơi đất khô.” Nghĩa đen của câu tục ngữ này là mưa lớn có tác dụng làm sạch bụi bẩn trên đất khô. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa bóng, nghĩa là một sự kiện xấu có thể giúp loại bỏ những vấn đề, trở ng
Câu tục ngữ 3: Kinh nghiệm đoán thời tiết trước khi có bão
Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Đây là một câu tục ngữ phản ánh quan sát và kinh nghiệm của người dân về hiện tượng thời tiết. Câu này cho thấy mối liên hệ giữa mật độ sao trên bầu trời đêm và hiện tượng mưa, nắng trong những ngày sau đó.
Vế “Mau sao thì nắng” nhấn mạnh ý nghĩa “dày, nhiều”, cho thấy rằng đêm có nhiều sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ nắng. Trong khi đó, vế “vắng sao thì mưa” nhấn mạnh ý nghĩa “ít, thưa”, cho thấy rằng đêm ít sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ mưa.
Kinh nghiệm này được đúc kết từ hiện tượng trông sao đoán thời tiết đã có từ lâu của nông dân ta và nó đã được áp dụng thường xuyên trong sản xuất nông nghiệp và trong sinh hoạt. Tuy nhiên, các phán đoán về hiện tượng thiên nhiên phần lớn dựa trên kinh nghiệm cho nên không phải lúc nào cũng đúng.
Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ
Câu tục ngữ này ám chỉ một dấu hiệu trước khi có bão là màu sắc của mây. “Ráng” là màu vàng xuộm của mây do mặt trời chiếu vào, và “mỡ gà” có nghĩa là một loại mây dày đặc, giống như lớp mỡ trên da gà. Vì vậy, khi thấy mây có màu sắc và hình dạng như vậy xuất hiện ở phía chân trời, đó có thể là dấu hiệu của một cơn bão sắp tới.
Câu tục ngữ này cũng là một kinh nghiệm thực tiễn của người dân trong việc đoán thời tiết và chuẩn bị cho những cơn bão có thể ảnh hưởng đến cuộc sống và sản xuất của h
Câu tục ngữ về kinh nghiệm dự báo bão
Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Dân gian đã từ lâu dựa vào hiện tượng ráng mỡ gà và chuồn chuồn bay để đoán bão, và câu tục ngữ này đúc kết kinh nghiệm đó.
Ngày nay, mặc dù ngành khí tượng đã có nhiều phương tiện khoa học hiện đại để dự báo bão, nhưng những kinh nghiệm dân gian vẫn còn tác dụng.
Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt
Khi thấy kiến rời khỏi tổ từng đàn lớn, kéo nhau từ chỗ đất thấp lên chỗ đất cao vào tháng bảy (Âm lịch), thì nhất định sẽ xảy ra lụt lội. Nhân dân đã quan sát và đúc kết quy luật từ thực tế này.
Đây là một trong những kinh nghiệm dự báo lụt của dân gian, bất chấp sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Khi trời mưa kéo dài và đàn kiến đội ngũ
Các loại kiến trong tổ khi trời sắp có những đợt mưa to kéo dài sẽ kéo ra đàn, di chuyển chỗ ở lên cao để tránh bị ngập nước và để bảo tồn nòi giống. Câu tục ngữ này chứng tỏ người xưa quan sát tỉ mỉ những biểu hiện nhỏ nhất trong thế giới tự nhiên, từ đó rút ra những nhận xét chính xác, lâu dần thành kinh nghiệm. Kinh nghiệm này nhắc nhở mọi người phải chuẩn bị phòng chống lũ lụt sau tháng bảy Âm lịch.
Giá trị của đất đai
“Tấc đất, tấc vàng.” Hình thức câu tục ngữ này được rút gọn tối đa chỉ có bốn tiếng chia thành hai vế đối xứng rất dễ hiểu, dễ nhớ. Nội dung của nó nêu bật giá trị của đất đai canh tác. Tấc là đơn vị đo lường cũ trong dân gian bằng 1/10 thước. Đất là đất đai trồng trọt chăn nuôi. Tấc đất là mảnh đất rất nhỏ, trong khi vàng là kim loại quý thường được cân đo bằng cân tiểu li, hiếm khi đo bằng tấc thước. Câu tục ngữ đã lấy cái có giá trị rất nhỏ (tấc đất) để so sánh với cái có giá trị rất lớn (tấc vàng) để khẳng định giá trị của đất đai đối với nhà nông. Nghĩa của cả câu là: một mảnh đất nhỏ bằng một lượng vàng lớn. Đất cũng quý giá như vàng, có khi còn quý hơn vàng.
Đất quý giá vì đất nuôi sống con người
Đất là một loại “vàng” đặc biệt có khả năng sinh sôi vô tận. Vàng thật dù nhiều đến đâu nhưng ngồi không ăn mãi cũng hết (Miệng ăn núi lở), còn chất vàng của đất đai khai thác hết thế hệ này sang thế hệ khác, mãi mãi không bao giờ vơi cạn. Vì thế con người cần sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả nhất. Người ta có thể sử dụng câu tục ngữ này trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như: để phê phán hiện tượng lãng phí đất; để đề cao giá trị của đất và thể hiện sự gắn bó yêu quý đất đai của người nông dân.
Bài học từ câu tục ngữ
Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là: Muốn làm giàu, cần phải phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lợi nhuận lớn gấp nhiều lần trồng lúa. Nhưng không phải thứ tự trong câu tục ngữ áp dụng nơi nào cũng đúng mà chúng phụ thuộc vào đặc điểm địa lí tự nhiên của từng vùng. Ở vùng nào có đặc điểm địa lí phong phú thì cách sắp xếp theo trật tự đó là hợp lí nhưng đối với những nơi chỉ thuận lợi cho một nghề phát triển, chẳng hạn nghề làm vườn hay làm ruộng, thì vấn đề lại không như vậy. Nói tóm lại, con người phải linh hoạt, sáng tạo trong công việc để tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh nghiệm trồng lúa và trồng trọt cây khác
Nhất thì, nhì thục
Kinh nghiệm này được đúc kết từ việc trồng lúa nước, nói riêng, và trồng trọt các loại cây, nói chung. Câu tục ngữ này đặc biệt bởi nó được rút gọn tối đa và chia làm 2 vế đối xứng. Nội dung của nó nhấn mạnh vào hai yếu tố thì và thục.
- Thì: Là thời vụ, thời tiết, rất quan trọng trong quá trình trồng trọt.
- Thục: Là đất canh tác phù hợp với từng loại cây, đóng vai trò không thể thiếu trong việc trồng trọt.
Câu tục ngữ này khẳng định rằng, trong trồng trọt cây, thời vụ và đất canh tác là hai yếu tố quan trọng nhất, và chúng cần được bảo đảm đầy đủ để đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất nông nghiệp của đất nước ta.
Thời vụ và đất canh tác quan trọng
Nghề trồng lúa nhất thiết phải gieo cấy đúng thời vụ và sau mỗi vụ thu hoạch phải tập trung cải tạo đất để chuẩn bị tốt cho vụ sau. Có như vậy thì công sức lao động vất vả của người nông dân mới được đền bù xứng đáng bằng những mùa lúa bội thu.
Súc tích, cụ thể, hình ảnh sinh động
Qua các câu tục ngữ trên, ta có thể rút ra đặc điểm chung về mặt hình thức của chúng ta là ngắn gọn, thường dùng phép đối, có vần điệu nhịp nhàng nên dễ đọc dễ nhớ. Có những câu không thể thu gọn được hơn nữa (Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng). Tuy hình thức tục ngữ ngắn gọn nhưng nội dung của nó cô đọng và hàm súc. Các hình ảnh trong tục ngữ thường cụ thể và sinh động. Người xưa hay sử dụng cách nói thậm xưng để khẳng định nội dung cần thể hiện. Ví dụ: Chưa nằm đã sáng; chưa cười đã tối; tấc đất; tấc vàng… Do vậy mà sức thuyết phục của tục ngữ cao hơn.
Kinh nghiệm từ hiện tượng thiên nhiên và sản xuất
Nông dân Việt Nam có khả năng trồng trọt và chăn nuôi giỏi
Những kinh nghiệm đúc kết từ các hiện tượng thiên nhiên và trong lao động sản xuất cho thấy từ ngàn xưa, nông dân ta đã có khả năng trồng trọt và chăn nuôi giỏi. Dựa trên cơ sở thực tế, họ đã đưa ra những nhận xét chính xác về một số hiện tượng thiên nhiên có liên quan trực tiếp đến lao động sản xuất. Từ đó, chủ động trong sắp xếp công việc của mình.
Yếu tố quan trọng nhất trong trồng lúa
Trong việc trồng lúa thì yếu tố quan trọng nhất không phải là giống mà là nước sau đó đến phân và sự chăm sóc của con người. Con trâu được coi là một tài sản quý giá của con người Việt cổ, không có trâu thì không thể làm việc được. Tóm lại qua đây ta có thể thấy được kinh nghiệm của cha ông ta trong việc nhìn hiện tượng thiên nhiên và lao động sản xuất. Từ những kinh nghiệm ấy chúng ta có thể biết được những việc phải làm để nâng cao năng suất trong trồng lúa và đoán được hiện tượng thiên nhiên đơn giản.
Tục ngữ trong văn học dân gian Việt Nam
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tục ngữ chiếm một vị trí quan trọng và có số lượng khá lớn. Nó được ví là kho báu của kinh nghiệm và trí tuệ dân gian. Khác với ca dao – dân ca thiên về biểu hiện tình cảm con người, tục ngữ mang tính trí tuệ, triết lí. Những triết lí, trí tuệ trong tục ngữ bắt rễ từ cuộc sống sinh động phong phú nên nội dung cũng như hình thức của tục ngữ không khô khan mà nó vẫn như cây đời xanh tươi. Tục ngữ Việt Nam có rất nhiều chủ đề. Trong đó nổi bật là những câu tục ngữ về thiên nhiên, lao động sản xuất, về con người và xã hội.
Quan trọng của việc trồng lúa và những kinh nghiệm của cha ông
Thứ tự 4 yếu tố cần thiết để nâng cao năng suất trong trồng lúa
Thứ nhất: Nước phải đầy đủ và hài hoà.
Thứ hai: Phân phải bón đúng thời vụ và đủ yêu cầu.
Thứ ba: Cần chăm chí vun xới, làm cỏ, trừ sâu và theo dõi từng bước sinh trưởng của cây.
Thứ tư: Cần coi trọng giống lúa và giống cây.
Tính trí tuệ của tục ngữ Việt Nam
Khác biệt giữa tục ngữ và ca dao – dân ca
Tục ngữ mang tính trí tuệ và triết lí, phản ánh những kinh nghiệm quý báu của nhân dân trong việc quan sát các hiện tượng thiên nhiên và trong sản xuất nông nghiệp. Nội dung cũng như hình thức của tục ngữ không khô khan mà vẫn như cây đời xanh tươi. Khác với ca dao – dân ca thiên về biểu hiện tình cảm con người.
Các chủ đề phổ biến trong tục ngữ Việt Nam
Tục ngữ Việt Nam có rất nhiều chủ đề, nổi bật là những câu tục ngữ về thiên nhiên, lao động sản xuất, về con người và xã hội.
Những câu tục ngữ về con người và xã hội
Ưu điểm của câu tục ngữ về con người và xã hội
So với tám câu tục ngữ thiên nhiên, lao động sản xuất, chùm tục ngữ chín câu về con người và xã hội sử dụng nhiều biện pháp thú vị hơn: so sánh nhiều cách (Một mật người hằng mười mặt của, Học thầy không tày học bạn, Thương người như thể thương thân); dùng ẩn dụ, đa nghĩa (Đói cho sạch, rách cho thơm, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây); dùng vần điệu lục bát nhẹ nhàng (Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao);…
Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật sinh động như thế, dưới hình thức những nhận xét, lời khuyên nhủ, cha ông ta đã truyền đạt rất nhiều bài học bổ ích về cách nhìn nhận con người, cách học, cách sống và ứng xử hằng ngày. Đấy là tấm lòng của người xưa, là cuốn giáo khoa giáo dục công dân đơn giản mà sâu sắc đối với học sinh chúng ta. Đọc chín câu tục ngữ mà sách giáo khoa tuyển chọn, chúng ta thấy câu nào cũng hay, câu nào cũng dạy chúng ta bài học về đạo lí rất thiết thực.
Những bài học từ câu tục ngữ về con người và xã hội
Câu một, câu hai:
- Một mặt người bằng mười mặt của: dạy chúng ta coi trọng nhân cách của mỗi con người.
- Cái răng, cái tóc là góc con người: dạy chúng ta coi trọng thân thể của mỗi con người.
Tấc đất, tấc vàng trong văn hóa dân gian Việt Nam
Nhân dân ta luôn nhấn mạnh giá trị của đất trong cuộc sống và sản xuất. Vì đất chính là nơi ta sống và làm việc. Thông qua bàn tay và trí tuệ, tinh thần lao động, từ một mảnh đất cỏn con, chúng ta có thể trồng trọt, sản xuất và đem lại cuộc sống ấm no. Do đó, đất chính là vàng, một loại vàng sinh sôi, phát triển.
Người có vàng, ăn mãi rồi cũng hết (miệng ăn núi lở). Còn vàng trong đất thì khai thác mãi không cạn. Câu tục ngữ ấy vừa phê phán ai đó để lãng phí đất đai, không chịu chăm chỉ lao động, sản xuất, vừa đề cao giá trị của đất đai, nhất là đất ở những vùng được thiên nhiên ưu đãi về thời tiết, địa hình và độ màu mỡ, dễ trồng trọt, làm ăn.
Ý nghĩa của câu tục ngữ “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
Để sản xuất lúa, gạo trên đồng ruộng Việt Nam, cha ông ta đã đúc kết nhiều kinh nghiệm và ghi nhớ bằng những câu tục ngữ ngắn gọn, như “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Đây là bốn khâu quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Theo cách nói trên, cha ông ta đã sắp xếp thứ tự quan trọng của bốn yếu tố, cũng có thể gọi là bốn quy trình kĩ thuật, bốn điều kiện, nguyên nhân để sản xuất thắng lợi.
Chi tiết về bốn yếu tố “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
- Nhất nước: Ruộng phải có đủ nước để trồng cây, đặc biệt là trong mùa khô. Nước là yếu tố quan trọng để cây lúa phát triển và cho năng suất cao nhất.
- Nhì phân: Phân bón là yếu tố thiết yếu trong
Đúc kết kinh nghiệm quan sát thiên nhiên và lao động sản xuất của ông cha ta
Trong quá khứ, chúng ta không có những kĩ thuật hiện đại để có thể dự báo được những hiện tượng của thiên nhiên. Tuy nhiên, bằng con mắt tỉ mỉ và óc quan sát khoa học, ông cha ta đã đúc kết được những kinh nghiệm quan sát thiên nhiên.
Các câu tục ngữ về thời tiết
Những câu tục ngữ như “Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa” hay “Cơn đằng Đông, vừa trông vừa chạy” cho thấy sự quan sát tỉ mỉ của ông cha ta. Khi chớp đằng đông nháy nháy và gà gáy thì thời tiết sẽ có mưa. Khi xuất hiện cơn mưa đằng Đông, phải vừa trông vừa chạy. Cơn mưa đằng Nam thì mưa sẽ đến chậm hơn, có thể làm thư thả, còn cơn đằng Bắc thì sẽ không có mưa. Cơn đằng Tây thì sẽ là mưa bão. Những câu nói về thời gian của tự nhiên cũng được ông cha ta lưu truyền, như “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”.
Các câu tục ngữ về lao động sản xuất
Không chỉ đúc kết được kinh nghiệm quan sát thiên nhiên, ông cha ta còn đúc kết được những kinh nghiệm trong lao động sản xuất. Các câu tục ngữ như “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” hay “Nhất thì, nhì thục” cho thấy sự thông hiểu về nền nông nghiệp lúa nước của ông cha ta. Ông cũng lưu truyền các câu tục ngữ như “chắc rễ bền cây” hay “Con trâu là đầu cơ nghiệp” để nhắc nhở các thế hệ sau về tầm quan trọng của lao động và sự chăm sóc kỹ lưỡng đối với cây trồng và vật nuôi.
Tục ngữ Việt Nam về thời tiết và môi trường
Ý thức quan sát
Vì vậy, nhân dân ta thường xuyên có ý thức quan sát mọi biến thái của thời tiết, mọi thay đổi của muôn loài – kể từ những con vật bé nhất như con kiến, để chủ động phòng chống lũ lụt.
Tục ngữ về dự đoán thời tiết
Tục ngữ dự đoán thời tiết của Việt Nam chúng ta vô cùng phong phú. Câu tục ngữ trên dùng cách nói chân phương, tả thực. Có nhiều câu dùng từ ngữ cường điệu : Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng – Ngày tháng mười cliưa cười đã tối, hoặc dùng vần điệu của thơ lục bát Chuồn chuồn bay thấp thì mưa – Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm… khá thú vị.
Tục ngữ về lao động sản xuất
Tục ngữ về lao động sản xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, cũng có nhiều điều thú vị khác. Ví dụ : Tấc đất, tấc vàng là câu nói ngắn gọn, cô đúc, được kết cấu theo cách so sánh và cường điệu, nhấn mạnh. Tấc đất là mảnh đất rất nhỏ, theo cách tính diện tích ngày xưa chi rộng khoảng 2,4m2 (Bắc Bộ), hay 3,3m2 (Trung Bộ). Vàng là kim loại quý, thường dược đo bằng cân tiểu li, hiếm khi do bằng tấc, bằng thước. Tấc vàng là một lượng vàng lớn, quý giá vô cùng. Câu tục ngữ lấy cái rất nhỏ (tấc đất) tính ngang bằng với cái rất lớn (tấc vàng). Theo lẽ thường, con người thường coi rẻ đất, coi trọng vàng.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c_ng%E1%BB%AF_Vi%E1%BB%87t_Nam