Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
Bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt được sáng khi ông đang là sinh viên du học ở Liên Xô. Bếp lửa là một trong số những tác phẩm thơ viết về những tình cảm, cảm xúc trong trẻo trong tâm hồn con người. Đó chính là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước đằm thắm và sâu sắc.
Các dàn ý chính:
- Tác giả và tác phẩm
- Nội dung chính của bài thơ
- Cấu trúc bài thơ
- Phân tích từng câu, từng khổ thơ
- Tầm nhìn tác giả truyền đạt qua bài thơ
Cấu trúc bài thơ
Bài thơ Bếp lửa gồm 6 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu. Tuy nhiên, trong mỗi khổ thơ lại không có sự chia đoạn rõ ràng. Bài thơ sử dụng rất nhiều từ ngữ miêu tả hình ảnh, âm thanh, mùi vị, tạo nên một bầu không khí rất sống động, chân thực.
Phân tích từng câu, từng khổ thơ
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ mô tả về hình ảnh chiếc bếp lửa cổ xưa, những bức xạ nóng bỏng của lửa. Các khổ thơ tiếp theo của bài thơ tạo nên một hình ảnh đầy màu sắc về cuộc sống quê hương, với những đồng ruộng, con đường quen thuộc, những ngôi nhà bình dị, đơn sơ. Nhà thơ Bằng Việt đã khéo léo tận dụng ngôn từ, hình ảnh để khắc họa một cách rất tinh tế những cảm xúc trong trẻo của con người đối với quê hương, với sự gắn bó sâu đậm của bà cháu.
Dàn ý phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – Mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
2. Thân bài:
- Hoàn cảnh ra đời:
- Sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài.
- Là một trong những sáng tác đầu tay của ông.
Phân tích bài thơ Bếp Lửa
Khổ thơ 1:
Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa quen thuộc. Từ láy “chờn vờn” cùng hình ảnh “ấp iu” cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa. Chữ “thương” tình cảm lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
Khổ thơ 2-5:
Ký ức về bà gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu.
- Kỷ niệm khi cháu lên 4 tuổi: với cái “đói mòn đói mỏi”, hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” những năm tháng đầy đói khổ, vất vả.
- Kỷ niệm năm cháu 8 tuổi: giặc ngoại xâm kéo đến tàn phá nhưng cũng không thể xóa nhòa tình làng nghĩa xóm. Lời dặn “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, đảm đang, kiên cường.
Khổ thơ cuối:
Những trăn trở, suy tư của cháu về bà. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Kết bài: Khẳng định giá trị của bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – Mẫu 2
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi ông là du học sinh Liên Xô. Tác phẩm của ông thường mang nét trong trẻo, mượt mà và khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ. Từ khi ra đời đến nay, bài thơ “Bếp lửa” vẫn giữ vị trí đặc biệt trong lòng độc giả nhờ hình ảnh tả thực và cảm xúc chân thật của tác giả.
Phân tích nội dung bài thơ
I. Mở bài
Trong phần này, ta giới thiệu về tác giả và tác phẩm. Bằng Việt là nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi ông đang du học ở Liên Xô. Chủ đề của bài thơ là những kỉ niệm về người bà và tình cảm giữa bà và cháu, đầy sâu sắc và thấm đượm.
II. Thân bài
1. Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu
Trong phần này, ta phân tích các chi tiết trong bài thơ để hiểu thêm về kỉ niệm của tác giả về người bà và tình cảm giữa ông và bà:
- Hình ảnh bếp lửa: Bằng Việt sử dụng những hình ảnh sống động để tái hiện lại hình ảnh bếp lửa, từ đó truyền tải được cảm xúc thân thuộc và gần gũi của ông đối với người bà.
- Kỉ niệm về tuổi thơ: Bài thơ cũng tả lại những kỉ niệm đầy gian khổ, thiếu thốn của tác giả khi còn trẻ. “Đói mòn đói mỏi” là những cảm xúc ám ảnh ông do nạn đói và quá khứ đau thương của dân tộc.
Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “sống mũi còn cay”
Trong kí ức của cháu, khói bếp hun nhèm mắt đã tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ. Khi nhớ lại, cháu có cảm giác như đang sống lại trong không khí đầy cay nghiệt.
Dòng hổi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội
Âm thanh của tiếng tu hú đã in sâu vào kí ức của cháu. Được nhắc đến tới 5 lần trong bài, tiếng tu hú đã giúp cháu tái hiện lại không gian bao la, buồn vắng và lạnh lùng của chốn đồng nội.
Tâm trạng của cháu được tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà
Bà của cháu đã tận tình che chở, bảo vệ cháu trong những thời gian khó khăn. Tình yêu thương vô bờ của bà đã làm tâm trạng của cháu trở nên tha thiết và mãnh liệt hơn.
“Bà dạy”, bà chăm” thể hiện sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà đối với cháu
Cháu cảm nhận được tấm lòng nhân hậu của bà thông qua cách bà dạy dỗ và chăm sóc cháu. Những lời “Bà dạy” và “Bà chăm” đã thể hiện sự chăm chút và tình yêu thương vô bờ của bà đối với cháu.
Ngay cả trong gian khó, hiểm nguy của chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng ( Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh)
Bà của cháu là một trong những người mẹ Việt Nam anh hùng, vẫn vững vàng giữa những gian khó và hiểm nguy của chiến tranh. Tâm trạng của cháu được tác động sâu sắc bởi phẩm chất cao quý của bà.
Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa
Hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa trong tình yêu thương của bà
- Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa: ngọn lửa của tình yêu thương, sự hi sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn.
- Điệp ngữ “một ngọn lửa”: nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu, người bà nhen nhóm những điều thiện lương tốt đẹp đối với cháu. Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai.
Sự tần tảo, hi sinh của bà thể hiện trong cuộc đời
- “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”: sự chiêm nghiệm của cháu về cuộc đời bà.
- Cuộc đời bà đầy những gian truân, vất vả, lận đận: trải qua nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt.
- Điệp từ “nhóm” lặp lại bốn lần: người bà đã nhóm lên, khơi dậy những yêu thương, kí ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu.
Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Nguyễn Đức Tú
I. Hình ảnh bếp lửa
– Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, hy vọng của bà: Người cháu như phát hiện ra điều kì diệu giữa cuộc sống đời thường “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa” – người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà.
II. Nỗi nhớ về người bà
– Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê hương: người cháu vẫn cảm thấy ấm áp bởi tình yêu thương vô bờ của bà. – Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”: niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu.
III. Kết bài
– Tác giả rất thành công trong việc sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực, mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa. – Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự phù hợp với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu. – Bài thơ chứa đựng triết lý, ý nghĩa thầm kín: những điều thân thiết của tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình cuộc đời, tình yêu thương và lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, quê hương.
Phân tích bài “Bếp Lửa” lớp 9 – Mẫu
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”
Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt. Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.
Một bếp lửa trong thơ Bằng Việt
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó.
Khơi nguồn mạch cảm xúc
Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về bà của mình.
Hình ảnh tươi sáng của bếp lửa
Từ láy “chờn vờn” ở câu thơ trước đi liền với “ấp iu” ở câu sau vừa gợi cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa.
Kỷ niệm về bà đọng lại
Bếp lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương và nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Khổ thơ đầu ngắn ngủi kết thúc bằng tình cảm của người cháu. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
Câu chuyện đầy cảm xúc về tình người trong chiến tranh
Ký ức đầy xúc cảm về bà và cháu trong thời chiến tranh
“Có lúc nghe mơ hồ, xa tít nơi “những cánh đồng xa”, có lúc lại gần gũi, thân thương “sao mà tha thiết thế”, lắm khi thì dồn dập, giục giã, lúc lại khắc khoải như than thở, sẻ chia…”
Tiếng chim không chỉ gợi ra một không gian mênh mông, bát ngát mà nó còn gợi cái hiu quạnh, lẻ loi của bà và cháu. Họ – một già, một trẻ đã phải nương tựa vào nhau mà sống hết những tháng ngày gian khổ của chiến tranh như thế.
Nhưng dù có nghèo, có khổ thì người bà vẫn luôn hết lòng chăm lo cho đứa cháu của mình: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
Những ký ức đầy xúc động về quê hương và những người thân
Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu.
Tiếng chim tu hú – Tiếng kêu quen thuộc của người nông dân Việt Nam
Tiếng chim tu hú đã trở thành tiếng kêu quen thuộc và là sự báo hiệu cho một mùa lúa chín. Tiếng tu hú kêu vì vậy tượng trưng cho sự no đủ của người dân.
Tượng trưng cho sự no đủ của người dân
Tiếng tu hú kêu như tiếng của chiếc đồng hồ báo thức nhắc nhở người bà rằng đã đến giờ kể chuyện cho cháu nghe. Trong một đoạn thơ mà tiếng tu hú kêu được lặp lại tới 3 lần khiến cho độc giả có cảm tưởng như tiếng tu hú đang từ xa vọng về.
Tiếng tu hú gợi lại kỷ niệm và nỗi nhớ
Nó khiến cho lòng người cháu ở nơi xa xứ lâng lâng. Tiếng tu hú kéo nỗi nhớ của nhà thơ về khiến cho nó dài hơn, rộng hơn. Bà không chỉ kể chuyện, bà còn dạy bảo cho cháu nhiều điều, thay cha mẹ chăm lo cho cháu để cháu được nên người.
Hình ảnh người bà và bếp lửa ấm áp
Ngôi nhà nhỏ vắng người, chỉ có hai bà cháu. Bà đã thay cha mẹ, làm nhiệm vụ của cha mẹ đó là dạy cháu làm, chăm cháu học. Bà dù già yếu nhưng vẫn tận tụy hết lòng vì cháu. Chính vì vậy mà hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện lên càng ấm áp hơn. Hai bà cháu đã nương tựa vào nhau để sống qua những ngày tháng khó khăn như vậy.
Với người nông dân Việt Nam, tiếng chim tu hú không chỉ là một âm thanh của thiên nhiên mà còn là một ký ức, một nỗi nhớ và tượng trưng cho sự no đủ, sự ấm áp của gia đình.
Chính Từ Tình Cảm Đó
Khi nhà thơ đi xa, nỗi nhớ thương bà càng lớn hơn. Nhà thơ đi xa rồi, thương cho bà ở nhà không có ai chăm sóc. Câu hỏi tu từ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà giống như một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc.
Sự Sóng Đôi, Quấn Quýt, Gắn Bó Giữa Bà Và Cháu
Hai từ bà, cháu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ này, thể hiện sự sóng đôi, quấn quýt, gắn bó giữa bà và cháu. Những năm tháng chiến tranh, hai bà cháu đã cùng nhau trải qua nhiều khó khăn khi mà ngôi nhà bị cháy rụi:
- Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
- Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
- Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
- Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Chính từ trong khó khăn đó, nghị lực của người bà càng trở nên bền vững hơn. Những câu thơ vừa cho thấy bà là người cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh.
Đại Diện Cho Những Người Phụ Nữ Việt Nam Giàu Đức Hi Sinh
Ngôi nhà của hai bà cháu dù bị giặc đốt cho cháy rụi nhưng thương con đang công tác xa nhà, không muốn con phải lo lắng, bà đã dặn cháu không được nói gì với bố. Thậm chí bà còn dặn cháu nói với bố là ở nhà mọi chuyện được yên. Bà là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, hết lòng vì con vì cháu.
Từ hình ảnh bếp lửa đến hình ảnh ngọn lửa
Trong bài thơ, nhà thơ đã nâng hình ảnh bếp lửa lên thành hình ảnh ngọn lửa, tượng trưng cho tình yêu thương và niềm tin.
Hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Trong bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện nhiều lần, tượng trưng cho tình cảm và sự truyền lửa của bà đến cháu. Nhà thơ nhắc đến các nhóm thức ăn được nấu trên bếp lửa như niềm yêu thương, khoai sắn, sắn, nồi xôi gạo mới, thể hiện sự quan tâm và chăm sóc của bà đến cháu.
Tình yêu thương từ bà
Bà không chỉ là người truyền lửa, bà còn truyền cho cháu tình yêu thương và sự quan tâm thông qua những món ăn được nấu trên bếp lửa. Nhà thơ muốn nhấn mạnh tình cảm dạt dào của bà dành cho cháu và ngược lại.
Kết thúc bài thơ
Bài thơ kết thúc bằng lời nhớ về bà của nhà thơ, dù đã đi xa nhưng những kỷ niệm về bà và hình ảnh bếp lửa ấp iu vẫn luôn hiện hữu trong tâm hồn của cháu.
Ký ức về tuổi thơ gian khổ
Kỷ niệm khi lên bốn tuổi
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ trên gợi nhắc về nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi người cháu mới lên bốn tuổi. Những câu thơ tương tự của “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng được nhắc đến để mô tả tình cảnh khốn khó của người dân. Tuy nhiên, hình ảnh mà người cháu nhớ nhất là khói của những bếp lửa bập bùng, của những kỷ niệm về năm tháng đói khổ, cơ cực mà cháu đã cùng bà trải qua.
Lời dặn dò của người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường. Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một ngọn lửa” nối tiếp nhau đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng cũng rất lung linh và đủ sức làm ấm lòng người đọc.
Kỷ niệm tuổi thơ và sự biết ơn của cháu
Để từ đó kỷ niệm tuổi thơ dần chuyển sang những suy nghĩ về bà bằng tất cả sự biết ơn của cháu. Sau bao nhiêu vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu. Bà “nhóm niềm yêu thương” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp.
Lời tâm sự của đứa cháu đã lớn khôn
Khổ thơ cuối là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn.
Phân tích bài Bếp lửa lớp 9 – Mẫu
Tình cảm gia đình và tình yêu đối với Tổ quốc
Đối với mỗi người chúng ta, tình cảm gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm đáng quý và đáng trân trọng nhất. Nhưng khi đất nước có chiến tranh thì người dân vẫn chấp nhận bỏ lại gia đình để lên đường đi chiến đấu. Chính từ tình yêu gia đình đã hình thành nên tình yêu đối với Tổ quốc.
Tình yêu thương của nhà thơ Bằng Việt đối với bà
Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành, Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Tuổi thơ của nhà thơ Bằng Việt và tình yêu của bà
Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ phải sống xa bố mẹ vì bố mẹ nhưng như thế không có nghĩa là nhà thơ sống thiếu thốn tình cảm. Ngược lại, nhà thơ Bằng Việt lớn lên trong tình yêu thương và dạy bảo của người bà kính yêu.
Tình cảm gia đình trong thơ Bằng Việt
Nhà thơ Bằng Việt lớn lên trong bối cảnh đất nước đầy chiến tranh, tuy nhiên, trong kí ức của ông, không có những hình ảnh đau thương của những người chết đầy đường. Đó là nhờ vào mùi khói bếp, người bà của ông đã giúp cho cuộc sống của ông trở nên bớt đau thương hơn.
Khói bếp và kí ức
Mùi khói bếp đã che lấp đi những nỗi đau, giúp ông quên đi những kí ức khó khăn trong quá khứ. Tuy nhiên, những kí ức đó vẫn còn sâu đậm trong tâm trí ông.
Hình ảnh nhóm lửa
Hình ảnh nhóm lửa đã thể hiện sự gắn kết giữa hai bà cháu trong suốt tám năm ròng. Đây không chỉ là việc nhóm lửa để nấu ăn, mà còn là sự sống, tình yêu, và sự gắn bó. Tiếng chim tu hú cũng là một trong những hình ảnh gợi lên trong thơ Bằng Việt, thể hiện sự tình cảm giữa hai bà cháu.
Kỷ niệm về bà
Cháu vẫn nhớ hình ảnh bếp lửa
Và dẫu cho năm tháng đó có trôi qua từ rất lâu thì những ký ức đó cho đến giờ vẫn khiến cháu cay xè khóe mắt khi nhớ tới. Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt nước mắt nơi người đọc. Thơ là phải đi từ trái tim đến trái tim và tôi tin rằng những câu thơ này của Bằng Việt đã làm được điều đó.
Kỷ niệm về cháu và bà nhóm lửa
Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Khi không còn hình ảnh bếp lửa
Cái đói khổ chưa qua thì giặc ngoại xâm đã tới. Chiến tranh ác liệt, mẹ và cha đều bận công tác xa nha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, ngần ấy thời gian cháu lớn lên cùng bà. Không còn hình ảnh bếp lửa, không còn mùi khói cay xè mắt cháu, ký ức của cháu lúc này là tiếng kêu của những con chim tu hú trên trời cao. Mười một dòng thơ mà âm vang tiếng chim cất lên năm lần.
Nỗi nhớ bà trong bài thơ Bếp lửa
Trong bài thơ Bếp lửa, tác giả đã dành cả tình cảm và nỗi nhớ đối với người bà của mình để viết lên từng câu thơ ấm áp và chan chứa tình thương:
Bếp lửa là tình yêu thương của bà
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Câu thơ đầu tiên đã tạo ra hình ảnh một bếp lửa trong sương sớm và câu thứ hai lại thể hiện tình cảm ấm áp của người cháu dành cho người bà của mình. Câu thơ thứ ba lại một lần nữa khẳng định tình thương của cháu dành cho người bà đã phải chịu nhiều vất vả, nắng mưa.
Ký ức tuổi thơ trong đầu tác giả
Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nên cứ ngỡ như là chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Tác giả đã khắc họa một cách sống động ký ức tuổi thơ của mình với mùi khói và khói hun nhèm mắt cháu trong những năm đói khủng khiếp năm 1945. Tất cả những ký ức này đã gắn liền với quá trình trưởng thành của tác giả.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%B1ng_Vi%E1%BB%87t