Kiến thức cơ bản cần nắm vững
I. Phép điệp (điệp ngữ)
Phép điệp là biện pháp tu từ lặp lại một yếu tố diễn đạt (vần, âm, thanh, từ, cụm từ, câu) nhằm nhấn mạnh, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa, có khả năng gợi hình tượng nghệ thuật.
Các hình thức điệp bao gồm:
- Điệp âm
- Điệp vần
- Điệp thanh
- Điệp từ
- Điệp ngữ
- Điệp cấu trúc cú pháp
Tác dụng của phép điệp là gợi hình ảnh, mô phỏng âm thanh, tạo sự nhấn mạnh, hoặc tạo ra sự liệt kê.
II. Phép đối
Phép đối là biện pháp tu từ sử dụng từ, cụm từ, câu ngược lại với ý nghĩa thật của chúng để tăng tính hài hước hoặc gây ấn tượng cho người đọc hoặc người nghe.
Phép đối có thể được sử dụng trong nhiều mục đích khác nhau như truyền tải thông tin, tạo ra sự thú vị, tăng tính thuyết phục, hoặc đơn giản là để tạo ra một hiệu ứng nghệ thuật.
Phép đối là cách xếp đặt từ ngữ, cụm từ và câu ở vị trí cân xứng nhau để tạo hiệu quả giống nhau hoặc trái ngược nhau nhằm gợi ra một vẻ đẹp hoàn chỉnh và hài hoà trong diễn đạt để hướng đến làm nổi bật một nội dung ý nghĩa nào đó. Có hai kiểu đối:
- Tiểu đối (tự đối): Các yếu tố đối xuất hiện trong nội bộ một câu, một dòng
- Trường đối (bình đối): dòng trên và dòng dưới, đoạn trên và đoạn dưới đối nhau
Tác dụng của phép đối: Gợi sự phong phú về ý nghĩa (tương đồng và tương phản), tạo ra sự hài hoà về thanh, nhấn mạnh ý.
Thực hành phép điệp và phép đối
I. Luyện tập về phép điệp (điệp ngữ)
Câu 1. Đọc các ngữ liệu (1) và (2) mục 1.1 (SGK trang 124) và trả lời câu hỏi.
a) Trong ngữ liệu (1), “nụ tầm xuân” được lặp lại nguyên vẹn. Nếu thay thế bằng “hoa tầm xuân” hay “hoa cây này” thì câu thơ sẽ có như thế nào? Cũng ở ngữ liệu (1):
“Nụ tầm xuân thắm lại nồng tình yêu, Tràn đầy trong tim hạnh phúc êm đềm.”
Nếu thay thế bằng “hoa tầm xuân” hay “hoa cây này” thì câu thơ sẽ không còn mang ý nghĩa như ban đầu, vì “nụ tầm xuân” là một từ chỉ sự trẻ trung, tươi mới và đầy hy vọng. Đồng thời, từ này cũng được sử dụng để so sánh với “tình yêu” trong câu thơ. Nếu thay thế bằng “hoa tầm xuân” hay “hoa cây này”, ý nghĩa ban đầu sẽ bị mất đi.
b) Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá mắc câu
Đối với câu thơ “Bây giờ em đã có chồng, Như chim vào lồng, như cá mắc câu,” việc sử dụng “như chim vào lồng, như cá mắc câu” là một phép tu từ được dùng để so sánh. Bằng cách sử dụng những hình ảnh này, tác giả muốn diễn tả sự khép kín, bị hạn chế và mất tự do của người phụ nữ sau khi kết hôn. Thay thế bằng một từ ngữ khác sẽ làm mất đi hiệu ứng so sánh và ý nghĩa của câu thơ.
Phép điệp và tác dụng của việc lặp từ trong thơ
Câu hỏi a:
Trong ngữ liệu (1), việc lặp lại cụm từ “nụ tầm xuân” có phải là phép điệp từ không? Nếu thay thế bằng các cụm từ khác, thì sẽ ảnh hưởng như thế nào đến ý và nhạc điệu của bài thơ?
Trả lời:
Việc lặp lại cụm từ “nụ tầm xuân” trong bài thơ là một phép điệp từ. Nếu thay thế bằng “hoa tầm xuân” hay “hoa cây này”, ý của bài thơ sẽ bị mờ nhạt và không tạo được ấn tượng mạnh mẽ về hình ảnh người con gái và tâm trạng của chàng trai.
Việc lặp từ này có tác dụng vừa nhấn mạnh, vừa làm cho ý thơ, nhịp thơ dường như chững lại, nó góp phần diễn tả sự hụt hẫng, sự thảng thốt trong tâm trạng của chàng trai khi được tin người con gái mình yêu đi lấy chồng.
Đồng thời, việc lặp lại cụm từ này cũng tạo ra một nhạc điệu đặc biệt, góp phần tạo nên giai điệu đặc trưng cho bài thơ.
Câu hỏi b:
Trong các câu ở ngữ liệu (2), việc lặp từ có phải là phép điệp từ không? Việc lặp từ ở những câu đó có tác dụng gì?
Trả lời:
Việc lặp từ trong các câu ở ngữ liệu (2) cũng là một phép điệp từ, giúp nhấn mạnh ý nghĩa của từ đó và tạo nên một hiệu ứng tăng sự lặp lại, sự khẩn trương trong nội dung truyền đạt.
Câu hỏi c:
Định nghĩa phép điệp.
Trả lời:
Phép điệp là một kỹ thuật sử dụng trong ngôn ngữ, trong đó một từ hoặc một cụm từ được lặp lại trong văn bản, tạo nên một hiệu ứng nhất định. Phép điệp từ được sử
Phân tích việc lặp lại cụm từ trong văn bản
Phần a:
Sự lặp lại này nhằm nhấn mạnh tình cảnh “cá chậu, chim lồng”, nỗi chua xót, sự lệ thuộc, bế tắc về bi kịch hôn nhân tình yêu của người phụ nữ thời phong kiến.
Nếu không lặp lại như thế thì sự so sánh cũng đã rõ ý. Nhưng việc lặp lại đã tô đậm thêm một lần nữa ý so sánh. Qua đó, cô gái muốn khẳng định với chàng trai về tình cảnh không thay đổi của mình.
Cách lặp ở đây không giống với cách lặp ở câu trên. Đoạn trên, cụm từ “nụ tầm xuân” ở cuối câu này được lặp lại ở đầu câu kia. Đoạn dưới, hai cụm từ thuộc hai vế trong cùng một câu được lặp lại ở đầu mỗi câu tiếp theo, trong đó đầu câu thứ nhất lặp lại cụm thứ hai (cá mắc câu) và đầu câu thứ hai lặp lại cụm thứ nhất (chim sổ lồng).
Phần b:
Trong các câu ở ngữ liệu (2), việc lặp từ không phải là phép điệp tu từ mà chỉ đơn thuần là nhằm tạo nên tính đối xứng và tính nhịp điệu, diễn đạt rõ ý cho câu nói mà thôi.
Phép điệp trong văn học
Phát biểu định nghĩa
Phép điệp là biện pháp tu từ được xây dựng bằng cách lặp lại một hoặc một số yếu tố diễn đạt (vần, nhịp, cụm từ, câu, từ) nhằm nhấn mạnh, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa, có khả năng gợi hình tượng.
Bài tập
a) Tìm ba ví dụ có điệp từ, điệp câu nhưng không có giá trị tu từ:
- Anh ấy uống nhiều, nói nhiều và hát nhiều nữa.
- Văn học giúp ta nhận thức cuộc sống, văn học còn chắp cánh ước mơ.
- Tôi yêu thương con người phương Nam, yêu cái nắng gió phương Nam.
b) Tìm ba ví dụ trong những bài văn đã học có phép điệp.
c) Viết một đoạn văn có phép điệp theo nội dung tự chọn.
Ví dụ
Trên đường về, anh chàng cứ bước tới bước lui, lúc nhanh lúc chậm, như một chú thỏ trắng đang tìm đường về tổ.
Ví dụ về phép điệp
Điệp từ:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng
(Ca dao)
Điệp ngữ:
Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đàn em ta đây xương sắt da đồng
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin. (Tố Hữu)
Điệp cấu trúc:
- Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!
- Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, ai không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Bài tập ở nhà
Tìm ba ví dụ có điệp từ, điệp câu nhưng không có giá trị tu từ:
- Anh ta đi chơi với bạn bè, đi ăn uống và mua sắm nhiều đồ.
- Văn học giúp ta hiểu thêm về cuộc sống, còn giúp chúng ta thực hiện được ước mơ.
- Tôi yêu thích con người và thiên nhiên ở miền Nam, yêu cái nắng gió của miền Nam.
Tìm ba ví dụ trong những bài văn đã học có phép điệp:
- “Tôi đứng nhìn nắng đi qua, rồi cũng tan đi. Nhưng ở lại trong lòng tôi, một chút nắng ấm đọng lại.” (Nguyễn Nhật Ánh)
- “Hôm ấy, trời xanh và gió mát. Mọi thứ đều tươi tốt và đẹp đẽ.” (Tô Hoài)
Nắng Hè – Phép điệp từ
Một phong vị riêng của nắng hè
Với nhiều người, có lẽ khi nhắc về nắng ngày hè luôn nghĩ ngay về cái oi ả, nóng nực của nó, nhưng với tôi, đó là cái nắng mà chỉ cần nhìn hay cảm nhận, tôi đã thấy nàng tiên mùa hạ đang vẫy tay để mang đến một mùa hè với biết bao những niềm vui tươi mới.
Nắng tràn ngập khắp muôn nơi
Nắng hè thường đến sớm, mỗi tinh mơ thức dậy, nắng đã chói chang khắp các con hẻm ngõ xóm. Nắng chảy trên những chiếc lá xanh mơn mởn, lấp ló trong những vòm lá có tiếng chim hót, tiếng ve kêu lanh lảnh. Nắng tinh nghịch cùng chú mèo ngoài sân đang vờn bắt những chùm nắng. Nắng lấp lánh trên dòng sông quê hương như khoác lên cho nó tấm áo dát vàng dát bạc. Nắng trường trên vai những bác nông dân đang cày ruộng trên cánh động rộng lớn. Và nắng cũng là những dải hoàng hôn ánh hồng sau lũy tre làng khi ngày tàn.
Nắng hè và niềm vui tươi mới
Nắng hè, mang một phong vị riêng, một niềm vui riêng khi những ngày mùa hạ được tắm ao, nô đùa bên mái đình, chạy dọc trên bờ đê, thả hồn theo cánh diều bay cao, bay xa, và được thưởng thức những món trái cây lạnh ngọt mát. Nắng, tuy giản đơn mà lại chất chứa những niềm vui như vậy.
Phép điệp từ: “Nắng”.
Quê hương là những gì bình dị và gần gũi nhất
Dòng sông đỏ phù sa và cánh đồng lúa chín vàng
Quê hương là dòng sông đỏ nặng phù sa, quanh co, êm đềm như dải lụa đào quấn quanh xóm làng. Quê hương là cánh đồng lúa chín vàng với những bông lúa nặng trĩu hạt, đung đưa trong gió, tỏa hương lùa ngào ngạt trong không gian.
Bên nước, sân đình và những buổi chiều nô đùa trên đê làng
Quê hương là bên nước, sân đình với những đêm trăng sáng, ngồi nghe bà kể chuyện cổ tích, những đêm trung thu rước đèn quanh ngõ xóm, hát ca rộn ràng. Và quê hương cũng là những buổi chiều nô đùa trên đê làng, chạy theo con diều tuổi thơ bay xa tít tắp đến tận chân trời.
Quê hương nuôi dưỡng tâm hồn ta
“Quê hương mỗi người chỉ một/Như là chỉ một mẹ mà thôi”, đúng vậy, quê hương yên bình, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn ta, cho ta tình yêu thương, nâng đỡ ta trưởng thành ngay từ những gì giản dị nhất. Có lẽ, dù sau này, khi đi đâu xa, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể quên đi quê hương, nơi lưu giữ những kỷ niệm tuổi thơ, thân thương mà yêu quý nhất trong cuộc đời này.
Đọc những ngữ liệu (1), (2), (3), (4) trong SGK trang 125,126
Câu hỏi:
a) Ở ngữ liệu (1) và (2), anh (chị) thấy cách sắp xếp từ ngữ có gì đặc biệt? Sự phân chia thành hai vế câu cân đối được gắn kết lại nhờ những biện pháp gì? Vị trí của các danh từ (chim, người ; tổ, tông,…), các tính từ (đói, rách, sạch, thơm,…), các động từ (có, diệt, trừ,…) tạo thế cân đối như thế nào?
b) Trong ngữ liệu (3) và (4) có những cách đối khác nhau như thế nào?
c) Tìm một số ví dụ về phép đối trong Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du) và thơ Đường luật. Đọc một vài câu đối mà anh (chị) nhớ được.
d) Phát biểu định nghĩa về phép đối.
Trả lời:
a) Ngữ liệu (1) và (2) đều có cách sắp xếp từ ngữ cân đối giữa hai vế trong một câu. Mỗi câu đều có hai vế, mỗi vế đều có ba từ. Hai vế cân đối được gắn kết với nhau nhờ phép đối.
b) Trong ngữ liệu (3) và (4) có sự đối lập giữa hai khái niệm, thể hiện bằng những từ đối nghịch như “tàn ác” và “nguy hiểm”, “hạnh phúc” và “thảm hoạ”, “lợi ích” và “khổ đau”.
c) Ví dụ về phép đối trong Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du) và thơ Đường luật:
- “Càn khôn lợi hại, giả nghĩa độc tài” (Truyện Kiều)
- “Ngự tràng vô tình, thái tử hữu vận” (Đường luật)
- “Trăm nghìn con sóng trên biển động, có người đi sau cũng chỉ là nước” (Hịch tướng
Phân tích các ngữ liệu ở mục 2 (SGK trang 126) và trả lời câu hỏi:
a) Tác dụng và các biện pháp của phép đối trong tục ngữ
Tục ngữ là những câu nói cô đọng, ngắn gọn và thường được sử dụng phép đối để đạt được tác dụng làm cho người đọc, người nghe dễ nhớ, dễ thuộc. Tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm trong lao động sản xuất và trong ứng xử xã hội. Phép đối trong tục ngữ phải dựa vào các biện pháp ngôn ngữ như vần, từ và câu để đạt được tính cân chỉnh, sự cân đối trong việc sắp xếp từng từ trong câu. Từ ngữ sử dụng trong tục ngữ hầu như không thể thay được vì mỗi câu tục ngữ đều mang tính cố định giống như các thành ngữ, quán ngữ. Hơn nữa, tục ngữ sử dụng phép đối rất cân chỉnh, không thể có một từ khác thay vào mà tính cân chỉnh của phép đối tốt hơn.
b) Sự ngắn gọn và khả năng lưu truyền của tục ngữ
Tục ngữ ngắn gọn nhưng lại khái quát được hiện tượng rộng, vì vậy người không học cũng có thể nhớ được, không cố ý ghi lại mà vẫn được lưu truyền. Điều này có thể giải thích bằng việc tục ngữ có tính sẵn có và quen thuộc, được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày của mọi người, từ đó dễ dàng ghi nhớ và truyền lại cho những thế hệ sau.
Vị trí của các danh từ, tính từ và động từ trong cân đối câu
Việc đặt các danh từ, tính từ và động từ ở những vị trí giống nhau trong mỗi vế của câu tạo nên sự cân đối trong cấu trúc ngữ pháp của câu. Ví dụ như hai danh từ “chim” và “người” đều đứng ở vị trí đầu mỗi vế, hai tính từ “sạch” và “thơm” đều đứng ở vị trí cuối mỗi vế.
Cách sử dụng phép đối trong ngôn ngữ
Các tác giả sử dụng phép đối trong ngôn ngữ để tạo nên sự cân đối và sắp xếp câu sao cho dễ nhớ và thu hút sự chú ý của người đọc. Ví dụ như trong ngữ liệu (3), tác giả sử dụng cách tiểu đối trong một câu để tạo nên sự cân đối, trong khi đó ngữ liệu (4) sử dụng cách đối giữa hai câu theo kiểu câu đối.
Các ví dụ trong văn học
Phép đối cũng được sử dụng rất nhiều trong các tác phẩm văn học, như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Truyện Kiều của Nguyễn Du, với nhiều câu văn sử dụng phép đối để tạo nên sự cân đối và ấn tượng.
Phép đối trong tục ngữ
Phép đối trong tục ngữ thường đi kèm với các biện pháp ngôn ngữ như: thường gieo vần lưng (tật/ thật), từ ngữ dùng mang giá trị tu từ (ẩn dụ, so sánh, nhân hoá…); câu ngắn và thường tỉnh lược các bộ phận…
Tính khái quát và dễ nhớ của tục ngữ
Tục ngữ là những câu rất ngắn nhưng vẫn khái quát được hiện tượng rộng, người không học mà cũng nhớ, không cố ý ghi lại mà vẫn được lưu truyền. Sở đĩ có được điều đó là vì cách diễn đạt của tục ngữ được chọn lọc, gọt giũa, có vần, có đối, nghe một lần là nhớ và rất khó quên.
Bài tập ở nhà về phép đối trong tục ngữ
a) Tìm mỗi kiểu đối một ví dụ.
b) Ra một vế đối cho các bạn cùng đối, kiểu như:
Tết đến, cả nhà vui như Tết
- a) Có nhiều kiểu đối:
- + Kiểu đối thanh:
- chim có tổ/ người có tông: (“tổ’’ – thanh trắc / “tông”, thanh bằng).
- Ăn cây nào / rào cây ấy, uống nước / nhớ nguồn. (trắc đối bằng)
- + Kiểu đối chọi về nghĩa: Gần mực thì đen / gần đèn thì sáng: (mực – xấu / đèn – tốt).
- + Kiểu đối từ loại:
- Đói cho sạch /rách cho thơm: (các từ có cùng từ loại đối với nhau: đối – rách; sạch – thơm).
- Chó treo/ mèo đậy (chó / mèo (danh từ); treo / đậy (động từ)).
- + Kiểu đối thanh:
- b) Ví dụ:
- Đi học buổi sáng, về buổi chiều
Thực hành các phép tu từ: Phép điệp và phép đối
Các ví dụ sau đây minh họa cho cách sử dụng phép đối trong văn chương để tạo ra hiệu quả cân đối và hài hòa:
Hịch tướng sĩ
- “Trăm thân này phơi ngoài nội cỏ / nghìn xác này gói trong da ngựa;”
- “Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa / hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển / hoặc vui thú ruộng vườn / hoặc quyến luyện vợ con;…”
Bình Ngô đại cáo
- “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân / Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;”
- “Gươm mài đá, đá núi phải mòn / Voi uống nước, nước sông phải cạn;”
Truyện Kiều
- “Gươm đàn nửa gánh / non sông một chèo;”
- “Người lên ngựa / kẻ chia bào…”
Thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan
“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua đèo Ngang)”
Ví dụ về phép đối trong câu đối
Đây là một câu đối viết bởi Nguyễn Khuyến, sử dụng phép đối để tạo ra hiệu ứng cân đối và hài hòa:
- “Thiếp kể từ khi lá thắm se duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại, điều khôn nhờ bố đỏ”
- “Chàng dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.”
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_bi%E1%BB%87n_ph%C3%A1p_tu_t%E1%BB%AB