Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 1
Mở bài
Nguyễn Khuyến là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ Thu ẩm thuộc chùm thơ về mùa thu của ông và là một trong những bài thơ thu hút độc giả nhất của ông. Bài thơ này đánh dấu một tư tưởng đặc sắc trong đời sống của con người, cũng như là nỗi lòng của nhà thơ về đất nước. Cảnh thu trong bài thơ được miêu tả qua bút pháp nghệ thuật thơ đầy độc đáo, tiêu biểu.
Thân bài
Bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến bắt đầu với hai câu đề:
Ba gian nhà có thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Nguyễn Khuyến không chọn không gian sáng để tôn lên bức tranh thu mà thay vào đó là không gian buổi đêm “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”. Cảnh thu trong bài thơ không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực rỡ. Đó là cảnh nghèo khó “ba gian nhỏ cỏ”. Gian nhà cỏ là biểu trưng cho cái nghèo, cái cực. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Khuyến, cái nghèo dường như bị xóa nhòa. Từ láy “le te” gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và khiến cảnh vật bị xóa nhòa.
Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.
Hình ảnh thơ rất độc đáo: sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào. Cách chọn hình ảnh rất bình dị, rất mộc mạc. Hình ảnh này cho ta thấy rõ hơn cảnh vật buổi đêm trong bài thơ và tạo cho độc giả một hình ảnh rất sinh động, tươi mới.
Xuất phát từ hai câu đề “Ba gian nhà có thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè”, bài thơ Thu Ẩm của Nguyễn Khuyến đưa đọc giả vào không gian buổi đêm với cảnh vật nghèo khó và mờ mịt. Tuy nhiên, nhờ vào cách chọn từ và hình ảnh rất bình dị, mộc mạc của tác giả, cảnh vật được tô điểm một cách tươi mới, sinh động hơn.
Với hai câu thực “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn áo lóng lánh bóng trăng loe”, Nguyễn Khuyến miêu tả hình ảnh sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào và bóng trăng lóng lánh, tạo nên một bức tranh về cảm giác uống rượu mùa thu cực kỳ tuyệt vời.
Với tông thơ cao quý và lời văn rất ấn tượng, Nguyễn Khuyến đã đưa đọc giả vào một thế giới đầy màu sắc và cảm xúc. Bài thơ Thu Ẩm của ông là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất trong thơ Việt Nam, là một bức tranh về văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 2
Mở bài:
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ tài năng của nền văn học trung đại Việt Nam, và bài thơ Thu Ẩm là một trong những bài thơ thu nổi tiếng nhất của ông. Tác phẩm này không chỉ phản ánh nỗi u hoài của con người, mà còn tôn vinh vẻ đẹp của mùa thu và nghệ thuật thơ.
Thân bài:
Để miêu tả cảnh vật, Nguyễn Khuyến đã sử dụng những hình ảnh đầy độc đáo, tiêu biểu như:
1. Hai câu đề:
Cảnh thu trong bài thơ không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực rỡ. Đó là cảnh nghèo khó, với những “ba gian nhỏ cỏ” và “ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”. Từ láy “le te” gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và khiến cảnh vật bị xóa nhòa. Hình ảnh này đã giúp người đọc hiểu được tâm trạng u hoài, buồn bã của tác giả.
2. Hai câu thực:
Cảnh ao lóng lánh bóng trăng loe được miêu tả trong câu thơ “làn áo lóng lánh bóng trăng loe”. Âm “l” đứng đầy các từ gần nhau góp phần làm rõ hơn về bức tranh cảnh vật. Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến.
3. Hai câu luận:
Trong câu thơ “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”, tác giả miêu tả hình ảnh bầu trời. Bầu trời có màu xanh và xanh ở mức tuyệt đối “xanh ngắt”. Đại từ phiếm chỉ “ai” đã làm người đọc hình dung về sự huyền bí, mờ ảo trong tác phẩm.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 3
Tình cảnh mùa thu trong mắt thi nhân
Trong bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến, tình cảnh mùa thu được miêu tả từ góc nhìn của một vị thi nhân say rượu. Khác với Thu vịnh của Hồ Chí Minh, Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của thi nhân là khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với “Năm gian nhà cỏ thấp le te”. Nơi đây chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành mà thay vào đó là những con “ngõ tối” cùng với ánh sáng “lập lòe” của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn.
Trong bài thơ, cảnh mùa thu được miêu tả đầy đủ và chân thực bằng những chi tiết sống động, từ hình ảnh “màn sương đêm giăng phất phơ” đến “bóng trăng loe” trên mặt ao phẳng lặng trước sân nhà. Điểm nhấn đặc sắc của mùa thu trong bài thơ là màu “xanh ngắt” nền nã, trong trẻo, như được ai dồn hết cả tâm sức mà nhuộm lên.
Đôi mắt say rượu của thi nhân
Trong bài thơ, thi nhân Nguyễn Khuyến cũng miêu tả đôi mắt của mình với từ “đỏ hoe”, ấm áp và nóng bỏng. Đôi mắt này chứa đựng nhiều cảm xúc và tâm trạng của thi nhân khi thưởng thức rượu mùa thu. Đây là điểm nhấn thể hiện tính cách, tâm hồn của thi nhân trong tình cảnh mùa thu.
Sự vô giá trị của rượu trong mắt thi nhân
Khác với suy nghĩ phổ biến của người ta về rượu, rằng nó là thú vui tao nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, thi nhân Nguyễn Khuyến lại không đánh giá rượu cao. Theo ông, rượu chỉ đơn thuần là thứ uống để quên đi nỗi buồn thời thế. Điều này được thể hiện trong câu thơ “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy”.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 4
Khung cảnh thu trong bài thơ
Bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến mô tả một khung cảnh thu trên nền tảng của một thú uống rượu tao nhã của thi nhân. Khác với cảnh mùa thu tươi đẹp, sặc sỡ trong bài thơ Thu vịnh, cảnh thu trong Thu ẩm lại mang đậm chất làng quê bình dị, với những ngôi nhà cỏ thấp le te, những ngõ tối đêm sâu đốm lập loè, những màn sương đêm phất phơ như màu khói nhạt bên lưng giậu. Tuy nhiên, đặc sắc của cảnh thu trong bài thơ này là sự tinh tế, sâu sắc trong miêu tả từng chi tiết, từng hình ảnh.
Cảm xúc của thi nhân
Trong bài thơ Thu ẩm, Nguyễn Khuyến khéo léo thể hiện cảm xúc của thi nhân thông qua phong cách làm thơ tinh tế và nhạy cảm. Bằng những chi tiết nhỏ nhặt về cảnh vật và bản thân, Nguyễn Khuyến thể hiện nỗi cô đơn, nỗi buồn trong thế sự đổi thay của cuộc đời. Thi nhân tìm đến rượu để tạm quên đi nỗi buồn, để ngắm nhìn trăng vàng và ao lặng trước sân nhà, để ngả mình vào giấc ngủ say.
Phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến
Phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến trong Thu ẩm là tinh tế, nhạy cảm và chứa đựng nhiều cảm xúc sâu xa. Thi nhân đã tạo nên một bức tranh cảm xúc về cảnh vật và bản thân mình thông qua những chi tiết tinh tế, như màu sắc của trời mùa thu, ánh sáng lập loè của đom đóm, màn sương đêm phất phơ như màu khói nhạt bên lưng giậu, bóng trăng loe trên mặt ao, và đôi mắt của thi nhân đỏ hoe trong men rượu.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 5
Bài thơ và tác giả
“Thu ẩm” là một trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đã để lại dấu ấn đậm nét trong văn học Việt Nam thế kỉ XIX. Bài thơ này nằm trong tập “Tục truyện” của Nguyễn Khuyến, một tập thơ lấy chủ đề từ đời sống xã hội và tập tục dân gian, chứa đựng nhiều tình cảm sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống và con người.
Nội dung và ý nghĩa
“Thu ẩm” là bài thơ về mùa thu và chén rượu. Nhưng đây không chỉ là một bài thơ đơn thuần về văn hóa uống rượu, mà còn là một bức tranh về tâm hồn và tình cảm của nhà thơ. Bài thơ như một lời tự sự của Nguyễn Khuyến với những tình cảm buồn vui, sâu lắng trong đời sống.
Cả bài thơ là một chuỗi hình ảnh tươi đẹp về mùa thu và chén rượu, từ hình ảnh bóng trăng loe tan ra trên mặt ao đến màu khói nhạt bay phất phơ, từ những vòng tròn lóng lánh của đom đóm đến màu sắc đỏ hoe của đôi mắt ngà ngà say. Những hình ảnh này đã tạo nên một không gian thơ mộng, đưa người đọc vào một thế giới tĩnh lặng và thanh bình của mùa thu.
Tuy nhiên, đằng sau những hình ảnh đó là tâm trạng u buồn, đau thương của nhà thơ. Nguyễn Khuyến đã sử dụng chén rượu như một phương tiện để thể hiện nỗi buồn cô đơn và quên đi những đau thương trong cuộc đời. Từ “say nhè” đến “độ năm ba chén đã say nhè” đều tạo ra một tình cảm u uất, giống như những giọt nước mắt tràn đầy chén rượu.
Nghệ thuật và ngôn ngữ
Nguyễn Khuyến đã sử dụng nghệ thuật và ngôn ngữ để tạo ra những hình ảnh tinh tế và sâu sắc trong bài thơ “Thu ẩm”. Nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ bình dị, mộc mạc để miêu tả cảnh vật, nhưng lại mang đến cho độc giả một hình ảnh rất sinh động, tươi mới. Từ láy “le te” và “đóm lập loè” cho ta thấy mức độ thấp của cảnh vật trong bài thơ. Điều này đã giúp nhà thơ truyền tải được tâm trạng u ám, cô đơn của mùa thu.
Ngoài ra, Nguyễn Khuyến còn sử dụng các hình ảnh như sương thu màu khói phủ quanh bờ rào, lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, lan áo lóng lánh bóng trăng loe, tạo nên những hình ảnh rất sắc nét và độc đáo. Từng hình ảnh này mang đến cho người đọc những trải nghiệm tưởng chừng như không thể thấy được bằng mắt thường, nhưng lại được truyền tải rất rõ ràng và sâu sắc qua từng câu thơ.
Điều đó cho thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc sử dụng ngôn ngữ và nghệ thuật để truyền tải cảm xúc và tạo nên những hình ảnh đẹp và sắc nét. Bài thơ “Thu ẩm” là một ví dụ điển hình cho nghệ thuật của ông và đã trở thành một tác phẩm văn học kinh điển của văn học Việt Nam.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 6
Mở đầu với vẻ đẹp của mùa thu
Mùa thu là một trong những mùa đẹp nhất trong năm với bầu trời xanh ngắt, cây cối rụng lá và không khí se lạnh thoải mái. Nhà thơ đã miêu tả những vẻ đẹp này một cách khéo léo trong bài thơ “Thu ẩm”. Trời thu có màu xanh ngắt, cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc. Các cây cối và mặt nước phủ đầy khói, trong khi ánh trăng chiếu sáng vào cửa đê. Hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ. Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi.
Ý nghĩa của dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh một chiếc thuyền câu bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo để miêu tả sự yên tĩnh và đặc biệt của mùa thu. Tất cả đều im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Cảm giác này chứa đựng tâm tư của cụ Tam Nguyên, ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong và sự đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng. Những hình ảnh mùa thu đã đem đến một sự kết hợp đầy tinh tế giữa dáng thu, hồn thu và tâm tư của nhà thơ.
Sự khác biệt trong cảnh vật
Bài thơ “Thu ẩm” miêu tả cảnh vật khác hẳn so với hai bài thơ khác của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, tất cả đều bao gồm các yếu tố cơ bản như cây cối, nước, ánh sáng và không khí của mùa thu. Tuy nhiên, nhà thơ đã sử dụng các hình ảnh khác nhau để miêu tả cảnh vật và tạo ra sự khác biệt trong cảm nhận của độc giả.
Trong bài thơ “Thu ẩm”, Nguyễn Khuyến sử dụng cảnh vật buổi đêm với không gian tối tăm, những ngõ hẹp và nhà cửa nghèo khó. Bức tranh mà nhà thơ vẽ ra không phải là những gì rực rỡ, sáng trọng mà là những gì đơn giản, bình dị và dường như bị che khuất bởi bóng tối. Tuy nhiên, những hình ảnh này lại mang lại cảm giác sâu sắc về sự u tối, u buồn của mùa thu và cảm giác sự đơn độc, cô đơn của con người.
Trong khi đó, trong bài thơ “Thu về”, Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh vật mùa thu với những tia nắng vàng rực rỡ, cây cối rợp bóng và gió thoảng qua. Cảnh vật trong bài thơ mang lại cảm giác ấm áp, yên bình và tươi vui, tạo ra một bức tranh mùa thu đầy sức sống và hoan hỉ.
Trong bài thơ “Thu trong đêm”, Nguyễn Khuyến sử dụng hình ảnh của một người đàn ông già uống rượu trên bờ ao. Nhà thơ miêu tả cảnh vật mùa thu bằng cách sử dụng những từ ngữ về màu sắc và cảm giác. Trong bài thơ, mùa thu được miêu tả bằng những tông màu nâu, vàng, đỏ, tạo ra một bức tranh ấm áp, cảm động về sự lạc quan, lặng lẽ của mùa thu.
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 7
Nhà thơ và tâm trạng buồn
Trong thơ ca, mùa thu thường được nhắc đến là mùa của nỗi buồn. Nhưng nỗi buồn đó lại có nhiều cung bậc khác nhau, từ buồn thương đến buồn nhớ, buồn man mác và cả buồn chán nản. Tuy nhiên, với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại được gắn liền với một tâm sự riêng.
Trong bài thơ Thu Ẩm – Mẫu 4, nhà thơ Cao Bá Quát đã tả lại tâm trạng buồn của cụ Tam Nguyên, một người nghiên cứu, bằng những hình ảnh và cảm nhận của mình. Nhà thơ cho biết rằng, đôi lúc cụ Tam Nguyên đau mắt, có lúc mắt đỏ như máu, liệu đó có phải do say rượu hay không? Bởi vì, say rượu cũng thường gây ra tình trạng đỏ mắt.
Tâm trạng buồn của nhà thơ được thể hiện qua những câu thơ như: “hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ”, “cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi”, “cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường”.
Biến hình của cảnh vật
Nhà thơ Cao Bá Quát đã sử dụng những hình ảnh và cảm nhận của mình để tả lại tâm trạng buồn của nhân vật chính trong bài thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng đã tạo nên một không gian mùa thu lảo đảo, say đắm bằng những biến hình của cảnh vật.
Tất cả các đối tượng trong bài thơ đều bị biến dạng, nhòe ra, chập lại, lảo đảo như say. Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Cả câu “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” có đến bốn tiếng có phụ âm “l”, tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả
Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Mẫu 8
Nguyễn Khuyến – một trong những nhà thơ hàng đầu của làng cảnh Việt Nam – đã để lại cho chúng ta bức tranh thu với đủ sắc màu và âm thanh dưới con mắt của một thi nhân, một con người đang đơn độc nâng chén rượu với cuộc đời. Tên của bài thơ “Thu ẩm” chính là điểm nổi bật, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ. Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm, khó có thể xác định được một không gian và thời gian cụ thể nào.
Nhà thơ và bức tranh thu
Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng, các hình ảnh thu lần lượt hiện về trong tâm trí, tạo nên bức tranh thu đa dạng. Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh nhà cỏ thấp le te và đêm tối đầy bí ẩn. Nơi mà nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”.
Nhiều cảnh thu
Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm với những lưng giậu phất phơ màu khói nhạt. Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà với câu “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”.