Giới thiệu về bài thơ
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh là một trong những tác phẩm nổi tiếng về chủ đề quê hương của ông. Tác phẩm này được sáng tác với tình cảm yêu thương và gợi nhắc lại ký ức tuổi thơ, cảm xúc về quê hương của tác giả.
Nội dung bài thơ
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh miêu tả về quê hương miền Nam yêu thương với những hình ảnh sống động về những con đường, con rạch, con kênh, những ngôi nhà cổ, vườn cây và đặc biệt là những người dân trên đất quê. Tác giả đã tả lại một cách chân thực về những nét đẹp và nét đáng yêu của quê hương.
Tác giả Tế Hanh
Tế Hanh là một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng.
Dàn ý phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
- Đề bài phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
- Giới thiệu về bài thơ
- Tổng quan về nội dung bài thơ
- Phân tích chi tiết các hình ảnh trong bài thơ
- Phân tích ngôn ngữ, cách diễn đạt của tác giả
- Phân tích ý nghĩa của bài thơ
Bức tranh lao động của làng chài
Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Thời gian bắt đầu: Sớm mai hồng => gợi niềm tin, hi vọng
Không gian: “trời xanh”, “gió nhẹ”
⇒ Người dân chài đi đánh cá trong buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi
Hình ảnh chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã”: phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển
“Cánh buồn như mảnh hồn làng”: hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng của làng chài quê hương
Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư thế bị động thành chủ động
⇒ Nghệ thuật ẩn dụ: cánh buồm chính là linh hồn của làng chài
⇒ Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống
Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về
⇒ Thể hiện không khí tưng bừng rộn rã vì đánh được nhiều cá
⇒ Lòng biết ơn đối với biển cả cho người dân chài nhiều cá tôm
“Da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”: phép tả thực kết hợp với lãng mạn => vẻ đẹp khỏe khoắn vạm vỡ trong từng làn da thớ thịt của người dân chài
Hình ảnh “con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác => Con thuyền trở nên có hồn, có sức sống như con người cơ thể cũng nhuộm vị nắng gió xa xăm
⇒ Bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm
Nỗi nhớ quê hương da diết
Những hình ảnh và màu sắc đặc trưng
Màu xanh của nước
Màu bạc của cá
Màu vôi của cánh buồm
Hình ảnh con thuyền
Mùi mặn mòi của biển
Nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương
Kết bài
– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
– Bài học về lòng yêu quê hương, đất nước
Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng.
Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển, hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ.
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh
Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh.
Bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:
Quê hương trong tâm trí của người Việt Nam
Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.
Quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh
Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây, một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.
Bầu trời trong trẻo và ngày mới bắt đầu
Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
Miêu tả cảnh vật bằng câu thơ
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
Cảm xúc gắn bó với quê hương
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến “hồn người”, phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế Hanh mới có thể viết được như vậy.
Cánh buồm trắng – một hình ảnh hoành tráng
Trong thơ ca, cánh buồm trắng thể hiện sự mạnh mẽ, hoành tráng của thiên nhiên. Hình ảnh này cũng gợi lên những tầm nhìn tương lai và hy vọng của con người.
Cánh buồm trắng và linh hồn quê hương
Cánh buồm trắng được so sánh với hồn người, cho thấy tác giả đang gắn kết cảm xúc với quê hương. Hình ảnh này mang lại sự thiêng liêng và trìu mến đối với vùng biển.
Sự tinh tế của nhà thơ
Phép so sánh trong thơ không chỉ giúp cho việc miêu tả cụ thể hơn, mà còn mang lại vẻ đẹp bay bổng, lớn lao, tinh tế của nhà thơ.
Cánh buồm trắng – sự chủ động của con người
Hình ảnh chiếc tàu nhỏ bé, đang vượt qua sóng nước mênh mông, thể hiện sự chủ động, làm chủ thiên nhiên của con người. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo ra cảm giác mở ra không gian vô tận, đầy hy vọng.
Quê hương và nhịp sống dân chài
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là niềm hi vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm việc với bao kết quả tốt đẹp:
Một ngày mới tràn đầy hy vọng
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Giờ phút lao động đầy hy vọng
Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.
Trở về trong ngơi nghỉ
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Đây là hình ảnh về sự hài lòng và mãn nguyện sau một ngày làm việc vất vả trên biển. Sự tận tâm và khổ luyện của ngư dân được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ nhặt, từ làn da ngăm đen rám nắng, đến thân hình nồng thở vị xa xăm
Nét tinh tế và tài hoa của Tế Hanh
Ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”
Tình cảm của một người con xa quê
Nói lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình là lúc nhà thơ bày tỏ tình cảm của một người con xa quê hướng về quê hương, về đất nước:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”
Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê, ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò, từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi. Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất.
Những câu thơ về biển
Mô tả cảnh tượng trên bến đỗ
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ yên trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân trắng bạc
Tình yêu quê hương và làng chài
Từ nhỏ có lẽ tác giả đã sống với quê hương, sống với những lần đoàn thuyền ra khơi đánh cá và trở về nên mới có được những vần thơ thật sâu sắc và giàu hình ảnh như thế. Dù ở xa quê hương nhưng tác giả vẫn diễn tả như thể mình đang chứng kiến cảnh tượng ấy diễn ra. Chính tình yêu quê hương đã giúp tác giả có được những cảm xúc như thế. Yêu quê hương là yêu mến những chàng trai làng cường tráng có làn da ngăm rám nắng, được tôi luyện trong lao động, trong vị mặn của nước biển quê hương. “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.” Yêu làng chài là yêu những con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả, trở về nằm ngủ im lìm trên bến. Con thuyền trong bài thơ đã được nhân hóa nhằm gợi cảm cuộc sống lao động vất vả mà yên vui của người dân:
Mô tả con thuyền trên bến
Chiếc thuyền im bến mới trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Vần thơ giàu cảm xúc
Các chữ im, mỏi, nằm, nghe, thấm dần rất gợi cảm và biểu cảm. Sự chuyển đổi cảm giác tài tình đã tạo nên những vần thơ giàu cảm xúc.
Khổ thơ về nỗi nhớ quê hương
Nhớ màu sắc của quê hương
Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, nỗi nhớ quê hương được diễn tả qua màu xanh của nước, màu bạc tươi ngon của cá, màu vôi bạc phếch của cánh buồm và mùi nồng mặn của biển. Các hình ảnh này đều thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với quê hương.
Nhớ thuyền làng chài rẽ sóng ra khơi
Bên cạnh đó, trong bài thơ cũng có hình ảnh con thuyền làng chài rẽ sóng ra khơi, tạo nên một khung cảnh đẹp và gợi lên những kỷ niệm xưa cũ. Tố Hữu đã ca ngợi bài thơ của Tế Hanh là những câu hát yêu thương, trong khi Xuân Diệu cho rằng đó là một dòng suối nhỏ nhưng là nguồn tình cảm trong lành và bền vững.
Nhân hóa trong bài thơ
Tác giả Tế Hanh đã sử dụng những nét nhân hóa trong bài thơ, khiến cho độc giả có thể đồng cảm và cảm nhận được những cảm xúc của tác giả. Điều này giúp bài thơ trở nên giàu tình cảm và hấp dẫn hơn đối với người đọc.
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…
Quê hương tôi có con sông xanh biếc – Nước gương trong soi bóng những hàng tre…; những vân thơ thiết tha đôi với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua. Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, đang học Trung học tại Huế.
Nỗi nhớ làng chài, quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Hai câu thơ đầu nói về làng tôi. Thân mật, tự hào, yêu thương… được thể hiện qua hai tiếng làng tôi ấy:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.
Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước bao vây, một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung cách biển nửa ngày sông. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân dã vừa cụ thể, vừa trừu tượng.
Những câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương: Cảnh làng chài ra khơi đánh cá. Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có gió nhẹ, có ánh mai hồng. Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh bơi thuyền đánh cá.
Các câu thơ tinh tế nhất trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ.
Hình ảnh “làn da ngắm rám nắng”
Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả.
Hai câu thơ miêu tả về con thuyền
Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân.
Tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật
Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe.
Tế Hanh và tình yêu quê hương
Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.
Tình yêu quê hương trong bài thơ của Tế Hanh
Bài thơ đem lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày sông, lung linh sóng nước, óng ả nắng vàng. Dòng sông, hồn biển ấy đã là nguồn cảm hứng theo mãi Tế Hanh từ thuở “hoa niên” đến những ngày tập kết trên đất Bắc. Vẫn còn đó tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, nồng ấm của một người con xa quê:
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bến sông
(Nhớ con sông quê hương – 1956)
Tế Hanh và phong trào Thơ mới
Với tâm hồn bình dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng lại không có những tư tưởng chán đời, thoát li với thực tại, chìm đắm trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ thời ấy.
Giới thiệu về Tế Hanh và bài thơ “Quê hương”
Tế Hanh sinh năm 1921 tại Quảng Ngãi. Bài thơ “Quê hương” được viết khi ông đang học tại Huế, lúc mới 18 tuổi. Bài thơ có 20 câu, mỗi câu có 8 chữ. Lời thơ trong sáng, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc nồng hậu thiết tha. Tình yêu và lòng thương nhớ quê hương của người con xa quê được thể hiện qua những vần thơ đậm đà và giàu hình ảnh.
Tình cảm với quê hương trong bài thơ
Hai câu thơ đầu với hai chữ “làng tôi” cho thấy niềm tự hào của tác giả về làng quê của mình. Đó là một làng chài ven biển miền Trung, có sông nước bao la vây quanh. Làng cách xa biển “nửa ngày sông”, một cách tính độ dài dân dã. Chữ vốn rất có ý nghĩa trong việc gợi lên một nghề truyền thống lâu đời và chính yếu của người dân quê hương.
Tế Hanh và tình cảm với quê hương
Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhơ,ù trong tâm tưởng người con đấùt Quảng Ngãi thân yêu – Tế Hanh – đó là những gì thiêng liêng nhất, tươi sáng nhất. Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”.
Sức mạnh của đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ
Hình ảnh của chiếc thuyền đánh cá
Các từ ngữ hăng, phăng, vượt, rướn, thâu góp đã làm nổi bật sức mạnh, niềm tin tưởng tự hào vào khí thế ra khơi của đoàn thuyền đánh cá:
- Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
- Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
- Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Mô tả cảnh làng chài sau chuyến ra khơi
Hai khổ thơ 8 câu tả cảnh làng chài khi những đoàn thuyền đánh cá quay về bến. Cảnh ồn ào tấp nập của làng chài đã được tác giả khắc họa rất sinh động. Các hình ảnh cá đầy ghe, những con cá tươi ngon thân bạc trắng đã cho thấy một chuyến ra khơi đầy may mắn và bội thu.
Cảm tạ thiên nhiên và hy vọng cuộc sống tốt đẹp
Ba tiếng nhờ ơn trời là lời cảm tạ thiên nhiên đã mang lại cho người dân những chuyến ra khơi bình yên cũng như cho con người một nguồn sống. Trời đã cho biển lặng, sóng êm, biển cho nhiều tôm cá, tất cả tạo cho tác giả một niềm hi vọng về cuộc sống tốt đẹp của người dân làng chài.
Làng chài của tôi
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Cảnh ra khơi đánh cá
Đó là những hình ảnh đẹp, thơ mộng và mạnh mẽ trong những buổi sáng khi ánh ban mai hừng lên. Các tính từ được dùng rất chọn lọc trong đoạn thơ này đã tạo nên những hình ảnh rất đẹp: trong, nhẹ, hồng. Giọng thơ nhỏ nhẹ, tâm tình, như có tiếng reo:
- Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
- Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Niềm vui đi chinh phục biển cả và khí thế ra khơi của bà con dân chài được thể hiện qua các hình ảnh về con thuyền, cánh buồm và mái chèo. Chiếc thuyền được ví với con tuấn mã phi nhanh đầy hăng hái. Mái chèo như lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống mặt nước. Cánh buồm trắng to như mảnh hồn làng, cách ví von rất sáng tạo nhằm nói lên khí thế lao động và khát vọng về ấm no hạnh phúc của người dân làng chài. Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một hình ảnh đẹp về cánh buồm to lớn đang căng gió ra khơi xa.
Nguồn tham khảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%BF_Hanh